Khác biệt giữa các bản “I Cô-rinh-tô: Chương 14”
(Bản Dịch 1926 to Bản Dịch 1925) |
|||
| Dòng 16: | Dòng 16: | ||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | ||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | ||
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành | ||
:* [[I Cô-rinh-tô]] | :* [[I Cô-rinh-tô]] | ||
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | :* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | ||
Phiên bản lúc 22:35, ngày 7 tháng 9 năm 2019
Bản Dịch 1925
1. Hãy nôn nả tìm kiếm tình yêu thương. Cũng hãy ước ao các sự ban cho thiêng liêng, nhứt là sự ban cho nói tiên tri. 2. Vì người nào nói tiếng lạ, thì không phải nói với người ta, bèn là với Đức Chúa Trời, bởi chẳng có ai hiểu (ấy là trong tâm thần mà người kia nói lời mầu nhiệm); 3. còn như kẻ nói tiên tri, thì nói với người ta để gây dựng, khuyên bảo và yên ủi. 4. Kẻ nói tiếng lạ, tự gây dựng lấy mình; song kẻ nói tiên tri, gây dựng cho Hội thánh. 5. Tôi ước ao anh em đều nói tiếng lạ cả, song tôi còn ước ao hơn nữa là anh em nói tiên tri. Người nói tiên tri là trọng hơn kẻ nói tiếng lạ mà không giải nghĩa để cho Hội thánh được gây dựng.
6. Hỡi anh em, vì bằng tôi đến cùng anh em, nói các thứ tiếng lạ, mà lời nói tôi chẳng tỏ sự mầu nhiệm, chẳng có sự thông biết, chẳng có lời tiên tri, chẳng có sự khuyên dạy, thì ích gì đến anh em? 7. Vậy, dẫu vật không linh tánh phát ra tiếng, như ống tiêu, đờn cầm: nếu không có âm điệu phân biệt nhau, thể nào nhận biết được ống tiêu hay là đờn cầm thổi và khảy cái chi? 8. Lại nếu kèn trổi tiếng lộn xộn, thì ai sửa soạn mà ra trận? 9. Anh em cũng vậy, nếu dùng lưỡi nói chẳng rõ ràng cho người ta nghe, thì làm sao họ được biết điều anh em nói? Vì anh em nói bông lông. 10. Trong thế gian có lắm thứ tiếng, mỗi thứ đều có nghĩa. 11. Vậy nếu tôi chẳng biết nghĩa của tiếng nói đó, thì người nói tiếng đó sẽ coi tôi là mọi, và tôi cũng coi họ là mọi nữa. 12. Ấy vậy, vì anh em nôn nả ước ao các sự ban cho thiêng liêng, hãy tìm cho được dư dật đặng gây dựng Hội thánh.
13. Bởi đó, kẻ nói tiếng lạ, hãy cầu nguyện để được thông giải tiếng ấy. 14. Vì nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ, thì tâm thần tôi cầu nguyện, nhưng trí khôn tôi lơ lửng. 15. Vậy thì tôi sẽ làm thể nào? Tôi sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng cầu nguyện bằng trí khôn. Tôi sẽ hát theo tâm thần, nhưng cũng hát bằng trí khôn. 16. Bằng không, nếu ngươi chỉ lấy tâm thần mà chúc tạ, thì người tầm thường ngồi nghe, chẳng hiểu ngươi nói gì, thể nào họ theo lời chúc tạ mình mà đáp lại "A-men" được? 17. Thật vậy, lời chúc tạ của ngươi vẫn tốt lành; song kẻ khác chẳng nhờ đó mà được gây dựng. 18. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời, vì đã được ơn nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy anh em; 19. nhưng thà tôi lấy năm lời bằng trí khôn mình mà rao giảng trong Hội thánh, để được dạy bảo kẻ khác, hơn là lấy một vạn lời bằng tiếng lạ.
20. Hỡi Anh em, về sự khôn sáng, chớ nên như trẻ con; nhưng về sự gian ác, thật hãy nên như trẻ con vậy. Còn về sự khôn sáng, hãy nên như kẻ thành nhơn. 21. Trong luật pháp có chép rằng: Chúa phán: Ta sẽ nhờ những người nói tiếng lạ, và môi miệng người ngoại quốc mà phán cho dân nầy; dầu vậy họ cũng chẳng nghe ta. 22. Thế thì, các thứ tiếng là một dấu, chẳng cho người tin Chúa, song cho người chẳng tin; còn như lời tiên tri là một dấu, chẳng phải cho người không tin, song cho người tin Chúa. 23. Vậy thì cả Hội thánh nhóm lại một nơi, nếu ai nấy đều nói tiếng lạ, mà có kẻ tầm thường hoặc người chẳng tin vào nghe, họ há chẳng nói anh em là điên cuồng sao? 24. Song nếu ai nấy đều nói tiên tri, mà có người chẳng tin hoặc kẻ tầm thường vào nghe, thì họ sẽ bị mọi người bắt phục, và bị mọi người xét đoán, 25. sự kín giấu trong lòng họ đã tỏ ra; họ bèn sấp mặt xuống đất, thờ lạy Đức Chúa Trời, và nói rằng thật có Đức Chúa Trời ở giữa anh em.
26. Hỡi Anh em, nên nói thể nào? Khi Anh em nhóm lại với nhau, trong anh em, ai có bài ca, hoặc bài giảng dạy, hoặc lời tỏ sự kín nhiệm, hoặc nói tiếng lạ, hoặc giải tiếng lạ chăng? Hãy làm hết thảy cho được gây dựng. 27. Ví bằng có người nói tiếng lạ, chỉ nên hai hoặc ba người là cùng; mỗi người phải nói theo lượt mình, và phải có một người thông giải. 28. Nếu không có ai thông giải, thì người đó phải làm thinh ở trong Hội thánh, mình nói với mình và với Đức Chúa Trời. 29. Người nói tiên tri cũng chỉ nên có hai hoặc ba người nói mà thôi, còn những kẻ khác thì suy xét. 30. Song, nếu một người trong bọn người ngồi, có lời tỏ kín nhiệm, thì người thứ nhất phải nín lặng. 31. Bởi vì anh em đều cứ lần lượt mà nói tiên tri được cả, để ai nấy đều được dạy bảo, ai nấy đều được khuyên lơn. 32. Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri. 33. Vả, Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự loạn lạc, bèn là Chúa sự hòa bình. Hãy làm như trong cả Hội thánh của các thánh đồ, 34. đờn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em: họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như luật pháp dạy. 35. Nhược bằng họ muốn học khôn điều gì, thì mỗi người trong đám họ phải hỏi chồng mình ở nhà; bởi vì đờn bà nói lên trong Hội thánh là không hiệp lẽ. 36. Có phải là đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng?
37. Nếu ai tưởng mình là tiên tri, hay là được Đức Thánh Linh soi sáng, thì người ấy hãy biết rằng đều tôi viết cho anh em đây là mạng lịnh của Chúa. 38. Mà nếu ai muốn bỏ qua thì mặc họ bỏ qua! 39. Ấy vậy, hỡi anh em, hãy trông mong ơn nói tiên tri, và đừng ngăn trở chi về điều nói tiếng lạ. 40. Nhưng mọi sự đều nên làm cho phải phép và theo thứ tự.
Bản Dịch 2011
Ơn Nói Tiếng Lạ và Ơn Nói Tiên Tri
1. Hãy đeo đuổi tình yêu và khao khát các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ơn nói tiên tri. 2. Vì người được ơn nói tiếng lạ không nói với loài người, nhưng nói với Ðức Chúa Trời, bởi không ai hiểu được, vì người ấy nói các huyền nhiệm trong Ðức Thánh Linh. 3. Trong khi đó người nói tiên tri nói với loài người để xây dựng, khích lệ, và an ủi. 4. Người nói tiếng lạ xây dựng chính mình, còn người nói tiên tri xây dựng hội thánh. 5. Dù tôi muốn tất cả anh chị em được ơn nói tiếng lạ, nhưng tôi càng mong muốn tất cả anh chị em được ơn nói tiên tri hơn. Người được ơn nói tiên tri cao trọng hơn người được ơn nói tiếng lạ, ngoại trừ có người thông giải, để hội thánh được xây dựng.
6. Bây giờ thưa anh chị em, nếu tôi đến với anh chị em và chỉ nói tiếng lạ, mà không nói cho anh chị em một sự mặc khải, hoặc một sự hiểu biết, hoặc một lời tiên tri, hoặc một sự dạy dỗ nào, thì tôi giúp ích được gì cho anh chị em chăng? 7. Các nhạc cụ không có sự sống cũng vậy, giống như ống sáo hoặc hạc cầm, nếu chúng không phát ra những âm thanh độc đáo riêng, làm sao người ta biết đó là tiếng sáo thổi hay hạc cầm đang trỗi khúc. 8. Nếu tiếng kèn thổi lên không rõ điệu, ai sẽ chuẩn bị ra trận? 9. Anh chị em cũng vậy, nếu miệng lưỡi anh chị em không phát âm những lời có thể hiểu được, ai biết anh chị em nói gì? Chẳng qua là nghe anh chị em nói líu lo thôi. 10. Hẳn nhiên trên thế giới nầy có nhiều ngôn ngữ, nhưng không ngôn ngữ nào không có ý nghĩa. 11. Nếu tôi không hiểu ý nghĩa của một ngôn ngữ, người nói ngôn ngữ ấy sẽ xem tôi là người ngoại quốc, và tôi cũng xem người ấy là người ngoại quốc. 12. Anh chị em cũng vậy, vì anh chị em nhiệt thành tìm kiếm các ân tứ thuộc linh, vậy hãy tìm kiếm cho nhiều để dùng xây dựng hội thánh.
13. Vậy người được ơn nói tiếng lạ hãy cầu nguyện để có người thông giải điều mình nói. 14. Vì nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ thì tâm linh tôi cầu nguyện, nhưng tâm trí tôi chẳng được kết quả gì. 15. Vậy tôi phải làm gì? Tôi sẽ cầu nguyện bằng tâm linh và tôi cũng cầu nguyện bằng tâm trí; tôi sẽ ca ngợi bằng tâm linh và tôi cũng ca ngợi bằng tâm trí. 16. Nếu không, khi bạn chúc tụng bằng tâm linh, làm sao một người không biết ngồi nghe có thể nói “A-men” về những lời bạn cảm tạ, khi người ấy không hiểu bạn nói gì? 17. Dù rằng lời cảm tạ của bạn thật tốt, nhưng người khác không được xây dựng. 18. Tôi tạ ơn Ðức Chúa Trời vì tôi nói tiếng lạ nhiều hơn mọi người trong anh chị em. 19. Nhưng trong hội thánh, tôi thà nói năm lời bằng tâm trí để có thể dạy dỗ người khác hơn nói mười ngàn lời bằng tiếng lạ.
20. Thưa anh chị em, về sự hiểu biết xin đừng như trẻ con; nhưng về điều ác, hãy nên như trẻ con; về sự hiểu biết, hãy như người trưởng thành.
21. Trong Luật Pháp có chép rằng,
“Bởi các thứ tiếng lạ và bởi môi miệng của những người ngoại quốc,
Ta sẽ nói với dân nầy;
Nhưng dù như thế, chúng vẫn chẳng nghe Ta.
Chúa phán vậy.”
22. Thế thì các tiếng lạ không phải là dấu kỳ cho các tín hữu, nhưng cho người chưa tin; còn lời tiên tri thì không phải cho người chưa tin, nhưng cho các tín hữu. 23. Khi cả hội thánh nhóm lại với nhau và ai cũng nói tiếng lạ, nếu có những người không biết hoặc những người chưa tin bước vào, họ sẽ chẳng bảo rằng anh chị em đã khùng cả rồi hay sao? 24. Nhưng nếu tất cả đều nói tiên tri, và có người chưa tin hoặc người không biết bước vào, tất cả sẽ làm cho người ấy bị bắt phục về tội lỗi mình, và tất cả sẽ làm cho người ấy bị cáo trách; 25. những gì bí mật trong lòng người ấy bị phơi bày, người ấy sẽ sấp mình xuống thờ lạy Ðức Chúa Trời và nói, “Quả thật, có Ðức Chúa Trời hiện diện giữa quý vị.”
Trật Tự Khi Nhóm Lại
26. Vậy, thưa anh chị em, chúng ta phải làm thế nào? Khi anh chị em nhóm lại với nhau, ai có một thánh thi, ai có lời dạy dỗ, ai có sự mặc khải, ai có tiếng lạ, ai có ơn thông giải tiếng lạ, hãy thực hiện tất cả để xây dựng lẫn nhau. 27. Nếu có ai nói tiếng lạ, thì tối đa chỉ hai hoặc ba người; và mỗi người phải nói theo thứ tự của mình, và phải có người thông giải. 28. Nhưng nếu không có người thông giải, người có ơn nói tiếng lạ phải im lặng trong hội thánh, người ấy hãy nói riêng giữa mình với Ðức Chúa Trời. 29. Các vị tiên tri cũng vậy, chỉ hai hoặc ba người, và những người khác sẽ thẩm định. 30. Nếu ai trong những người ngồi đó nhận được sự mặc khải từ Chúa, thì người đang nói hãy im lặng để nhường lời, 31. vì mọi người trong anh chị em có thể lần lượt nói tiên tri để tất cả được học hỏi và khích lệ. 32. Tâm linh của các vị tiên tri thuận phục các vị tiên tri, 33. vì Ðức Chúa Trời không phải là Ðức Chúa Trời của hỗn loạn nhưng của hòa bình.
Như trong tất cả các hội thánh của các thánh đồ, 34. phụ nữ phải im lặng trong các hội thánh; họ không được phép phát biểu ý kiến, nhưng phải thuận phục như Luật Pháp đã dạy. 35. Nếu họ muốn học hỏi điều gì, họ nên hỏi chồng của họ ở nhà, vì thật là xấu hổ khi phụ nữ nói giữa hội thánh.
36. Không phải lời Ðức Chúa Trời đã phát xuất từ anh chị em sao? Không lẽ lời Ngài chỉ đến với anh chị em thôi sao?
37. Nếu ai nghĩ mình là một tiên tri hay một người thuộc linh, người ấy phải nhìn nhận rằng những gì tôi viết cho anh chị em đây là lịnh của Chúa. 38. Nếu ai không nhìn nhận điều đó, xin anh chị em đừng nhìn nhận người ấy.
39. Vậy thưa anh chị em, hãy khao khát được ơn nói tiên tri, nhưng cũng đừng cấm cản việc nói tiếng lạ. 40. Xin chúng ta hãy làm mọi sự một cách lễ độ và có trật tự.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- I Cô-rinh-tô
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành