Giăng: Chương 10

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB43C010)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

Người chăn chiên nhân lành

1. “Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Người nào không do cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào từ lối khác thì người đó là kẻ trộm và là kẻ cướp. 2. Nhưng ai do cửa mà vào là người chăn chiên. 3. Người canh cửa mở cho người đó, và chiên nghe tiếng của người. Người gọi chiên của mình bằng tên, và dẫn chúng ra ngoài. 4. Khi đã đem tất cả chiên ra hết, thì người đi trước chúng, và chiên theo sau người, bởi vì chiên biết tiếng của người. 5. Tuy nhiên chúng không theo người lạ, nhưng chạy khỏi người lạ, bởi vì chiên không quen tiếng của những người lạ.”

6. Đức Chúa Jesus kể ẩn dụ nầy cho họ, nhưng họ không hiểu Ngài muốn nói gì với họ.

7. Vì vậy, Đức Chúa Jesus lại nói với họ: “Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Ta là cửa của chiên. 8. Tất cả những người đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp, nhưng chiên không nghe theo chúng. 9. Ta là cái cửa, nếu ai bởi Ta mà vào, người đó sẽ được cứu rỗi, và người đó sẽ đi vào, sẽ đi ra, và gặp đồng cỏ. 10. Kẻ trộm đến, để cướp, giết, và hủy diệt. Ta đã đến để cho chiên được sự sống và được sự sống sung mãn. 11. Ta là người chăn nhân lành. Người chăn nhân lành hy sinh mạng sống của mình vì bầy chiên. 12. Nhưng người làm thuê không phải là người chăn; vì chiên không thuộc về người, nên khi thấy sói đến, thì bỏ chiên chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho tan lạc. 13. Bởi vì là người làm thuê, cho nên người không quan tâm gì đến chiên. 14. Ta là người chăn nhân lành. Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta, 15. như Cha biết Ta, và Ta cũng biết Cha vậy; và Ta hy sinh mạng sống của mình vì chiên. 16. Ta còn có những chiên khác không thuộc về chuồng nầy; Ta cần phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe tiếng của Ta, và rồi sẽ chỉ có một bầy với một người chăn. 17. Cha yêu thương Ta vì điều nầy: Bởi vì Ta hy sinh mạng sống của mình để rồi Ta nhận nó lại. 18. Không ai cất nó khỏi Ta, nhưng Ta tự nguyện hy sinh. Ta có quyền hy sinh và có quyền lấy lại. Ta đã nhận mệnh lệnh nầy từ Cha của Ta.”

19. Vì những lời nầy, lại có sự chia rẽ giữa vòng những người Do Thái. 20. Nhiều người trong số họ nói: “Ông ta bị quỷ ám, ông ta điên, tại sao các anh lại nghe ông ta?” 21. Những người khác thì nói: “Đây không phải là những lời nói của một người bị quỷ ám. Quỷ không thể mở mắt của người mù?”

Đức Chúa Jesus tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ kỷ niệm Cung Hiến Đền Thờ

22. Lễ Cung Hiến diễn ra tại Giê-ru-sa-lem vào lúc đó. Lúc này là mùa đông, 23. Đức Chúa Jesus đang đi trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang của Sa-lô-môn. 24. Do đó những người Do Thái đã vây quanh Ngài và hỏi Ngài: “Thầy cứ để cho linh hồn của chúng tôi phân vân cho đến khi nào? Nếu Thầy là Đấng Christ, thì hãy nói rõ cho chúng tôi.”

25. Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Ta đã nói cho các ngươi rồi nhưng các ngươi không tin. Những việc Ta thực hiện trong danh của Cha của Ta, những điều này đều làm chứng cho Ta. 26. Nhưng các ngươi không tin, bởi vì các ngươi không phải là chiên của Ta. 27. Chiên của Ta nghe tiếng Ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta. 28. Ta ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất bao giờ, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Ta. 29. Cha của Ta, là Đấng vĩ đại hơn tất cả, đã cho Ta những chiên đó, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Cha. 30. Ta với Cha là một.”

31. Do đó, những người Do Thái một lần nữa lại nhặt đá để ném Ngài. 32. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Ta đã bày tỏ cho các ngươi nhiều việc tốt đẹp từ Cha; như vậy vì cớ điều nào trong những điều này mà các ngươi ném đá Ta?”

33. Những người Do Thái trả lời Ngài: “Chúng tôi không ném đá ông vì một việc tốt đẹp, nhưng vì lời phạm thượng; bởi vì ông, là một con người, mà tự cho mình là Đức Chúa Trời.”

34. Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Không phải trong luật pháp của các ngươi đã chép: ‘Ta đã nói các ngươi là thần,’ hay sao? 35. Nếu những người, mà lời của Đức Chúa Trời đã đến với họ, được gọi là thần, và lời Kinh Thánh không thể hủy bỏ được, 36. thì Đấng đã được Đức Chúa Cha biệt riêng ra thánh và sai đến thế gian, thì các ngươi lại nói rằng 'Ngươi phạm thượng', bởi vì Ta đã nói rằng: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời’? 37. Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta thì đừng tin Ta. 38. Nhưng nếu Ta đã làm, thì dù các ngươi không tin Ta, hãy tin những công việc của Ta, để các ngươi có thể biết và hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.”

39. Vì vậy, họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài đã đi khỏi tầm tay của họ.

40. Và rồi một lần nữa Ngài khởi hành đi qua phía bên kia của Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm báp-têm lần đầu tiên, rồi Ngài ở lại đó. 41. Nhiều người đã đến với Ngài, và nói rằng: “Thật ra Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng tất cả những điều Giăng đã nói về người nầy đều là thật.”

42. Tại đó có nhiều người tin Ngài.

Bản Dịch Đại Chúng

Người chăn chiên nhân lành

“Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Người nào không do cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào từ lối khác thì người đó là kẻ trộm và là kẻ cướp. Nhưng ai do cửa mà vào là người chăn chiên. Người canh cửa mở cho người đó, và chiên nghe tiếng của người. Người gọi chiên của mình bằng tên, và dẫn chúng ra ngoài. Khi đã đem tất cả chiên ra hết, thì người đi trước chúng, và chiên theo sau người, bởi vì chiên biết tiếng của người. Tuy nhiên chúng không theo người lạ, nhưng chạy khỏi người lạ, bởi vì chiên không quen tiếng của những người lạ.”

Đức Chúa Jesus kể ẩn dụ nầy cho họ, nhưng họ không hiểu Ngài muốn nói gì với họ.

Vì vậy, Đức Chúa Jesus lại nói với họ: “Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Ta là cửa của chiên. Tất cả những người đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp, nhưng chiên không nghe theo chúng. Ta là cái cửa, nếu ai bởi Ta mà vào, người đó sẽ được cứu rỗi, và người đó sẽ đi vào, sẽ đi ra, và gặp đồng cỏ. Kẻ trộm đến, để cướp, giết, và hủy diệt. Ta đã đến để cho chiên được sự sống và được sự sống sung mãn. Ta là người chăn nhân lành. Người chăn nhân lành hy sinh mạng sống của mình vì bầy chiên. Nhưng người làm thuê không phải là người chăn; vì chiên không thuộc về người, nên khi thấy sói đến, thì bỏ chiên chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho tan lạc. Bởi vì là người làm thuê, cho nên người không quan tâm gì đến chiên. Ta là người chăn nhân lành. Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta, như Cha biết Ta, và Ta cũng biết Cha vậy; và Ta hy sinh mạng sống của mình vì chiên. Ta còn có những chiên khác không thuộc về chuồng nầy; Ta cần phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe tiếng của Ta, và rồi sẽ chỉ có một bầy với một người chăn. Cha yêu thương Ta vì điều nầy: Bởi vì Ta hy sinh mạng sống của mình để rồi Ta nhận nó lại. Không ai cất nó khỏi Ta, nhưng Ta tự nguyện hy sinh. Ta có quyền hy sinh và có quyền lấy lại. Ta đã nhận mệnh lệnh nầy từ Cha của Ta.”

Vì những lời nầy, lại có sự chia rẽ giữa vòng những người Do Thái. Nhiều người trong số họ nói: “Ông ta bị quỷ ám, ông ta điên, tại sao các anh lại nghe ông ta?” Những người khác thì nói: “Đây không phải là những lời nói của một người bị quỷ ám. Quỷ không thể mở mắt của người mù?”

Đức Chúa Jesus tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ kỷ niệm Cung Hiến Đền Thờ

Lễ Cung Hiến diễn ra tại Giê-ru-sa-lem vào lúc đó. Lúc này là mùa đông, Đức Chúa Jesus đang đi trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang của Sa-lô-môn. Do đó những người Do Thái đã vây quanh Ngài và hỏi Ngài: “Thầy cứ để cho linh hồn của chúng tôi phân vân cho đến khi nào? Nếu Thầy là Đấng Christ, thì hãy nói rõ cho chúng tôi.”

Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Ta đã nói cho các ngươi rồi nhưng các ngươi không tin. Những việc Ta thực hiện trong danh của Cha của Ta, những điều này đều làm chứng cho Ta. Nhưng các ngươi không tin, bởi vì các ngươi không phải là chiên của Ta. Chiên của Ta nghe tiếng Ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất bao giờ, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Ta. Cha của Ta, là Đấng vĩ đại hơn tất cả, đã cho Ta những chiên đó, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Cha. Ta với Cha là một.”

Do đó, những người Do Thái một lần nữa lại nhặt đá để ném Ngài. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Ta đã bày tỏ cho các ngươi nhiều việc tốt đẹp từ Cha; như vậy vì cớ điều nào trong những điều này mà các ngươi ném đá Ta?”

Những người Do Thái trả lời Ngài: “Chúng tôi không ném đá ông vì một việc tốt đẹp, nhưng vì lời phạm thượng; bởi vì ông, là một con người, mà tự cho mình là Đức Chúa Trời.”

Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Không phải trong luật pháp của các ngươi đã chép: ‘Ta đã nói các ngươi là thần,’ hay sao? Nếu những người, mà lời của Đức Chúa Trời đã đến với họ, được gọi là thần, và lời Kinh Thánh không thể hủy bỏ được, thì Đấng đã được Đức Chúa Cha biệt riêng ra thánh và sai đến thế gian, thì các ngươi lại nói rằng 'Ngươi phạm thượng', bởi vì Ta đã nói rằng: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời’? Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta thì đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta đã làm, thì dù các ngươi không tin Ta, hãy tin những công việc của Ta, để các ngươi có thể biết và hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.”

Vì vậy, họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài đã đi khỏi tầm tay của họ.

Và rồi một lần nữa Ngài khởi hành đi qua phía bên kia của Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm báp-têm lần đầu tiên, rồi Ngài ở lại đó. Nhiều người đã đến với Ngài, và nói rằng: “Thật ra Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng tất cả những điều Giăng đã nói về người nầy đều là thật.”

Tại đó có nhiều người tin Ngài.

Bản Dịch Ngữ Căn

1. “Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Người nào không do cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào từ lối khác thì người đó là kẻ trộm và là kẻ cướp. 2. Nhưng ai do cửa mà vào là người chăn chiên. 3. Người canh cửa mở cho người đó, và chiên nghe tiếng của người. Người gọi chiên của mình bằng tên, và dẫn chúng ra ngoài. 4. Khi đã đem tất cả chiên ra hết, thì người đi trước chúng, và chiên theo sau người, bởi vì chiên biết tiếng của người. 5. Tuy nhiên chúng không theo người lạ, nhưng chạy khỏi người lạ, bởi vì chiên không quen tiếng của những người lạ.” 6. Đức Chúa Jesus kể ẩn dụ nầy cho họ, nhưng họ không hiểu Ngài muốn nói gì với họ.

7. Vì vậy, Đức Chúa Jesus lại nói với họ: “Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi. Ta là cửa của chiên. 8. Tất cả những người đến trước Ta đều là những kẻ trộm và những kẻ cướp, nhưng chiên không nghe chúng. 9. Ta là cái cửa, nếu ai bởi Ta mà vào, người đó sẽ được cứu rỗi, và người đó sẽ đi vào, và sẽ đi ra, và gặp đồng cỏ. 10. Kẻ trộm sẽ không đến, nếu không phải để có thể cướp, giết, và hủy diệt. Ta đã đến để cho chiên được sự sống và được sự sống sung mãn. 11. Ta là người chăn nhân lành. Người chăn nhân lành hy sinh mạng sống của mình vì bầy chiên. 12. Nhưng người làm thuê không phải là người chăn; vì chiên không thuộc về người, nên khi thấy sói đến, thì bỏ chiên chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho tan lạc. 13. Bởi vì là người làm thuê cho nên người không quan tâm gì đến chiên. 14. Ta là người chăn nhân lành. Ta biết chiên của Ta, và chiên của Ta biết Ta, 15. như Cha biết Ta, và Ta cũng biết Cha vậy; và Ta hy sinh mạng sống của mình vì chiên. 16. Ta còn có những chiên khác không thuộc về chuồng nầy; Ta cần phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe tiếng của Ta, và rồi sẽ chỉ có một bầy với một người chăn. 17. Cha yêu thương Ta vì điều nầy: Bởi vì Ta hy sinh mạng sống của mình để rồi Ta nhận nó lại. 18. Không ai cất nó khỏi Ta, nhưng Ta tự nguyện hy sinh. Ta có quyền hy sinh và có quyền lấy lại. Ta đã nhận mệnh lệnh nầy từ Cha của Ta.”

19. Vì những lời nầy, lại có sự chia rẽ giữa vòng những người Do Thái. 20. Nhiều người trong số họ nói: “Ông ta bị quỷ ám, ông ta điên, tại sao các anh lại nghe ông ta?” 21. Những người khác thì nói: “Đây không phải là những lời nói của một người bị quỷ ám. Quỷ không thể mở mắt của người mù?”

22. Lễ Cung Hiến diễn ra tại Giê-ru-sa-lem vào lúc đó. Lúc này là mùa đông, 23. Đức Chúa Jesus đang đi trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang của Sa-lô-môn. 24. Do đó những người Do Thái đã vây quanh Ngài và hỏi Ngài: “Thầy cứ để cho linh hồn của chúng tôi phân vân cho đến khi nào? Nếu Thầy là Đấng Christ, thì hãy nói rõ cho chúng tôi.” 25. Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Ta đã nói cho các ngươi rồi nhưng các ngươi không tin. Những việc Ta thực hiện trong danh của Cha của Ta, những điều này đều làm chứng cho Ta. 26. Nhưng các ngươi không tin, bởi vì các ngươi không phải là chiên của Ta. 27. Chiên của Ta nghe tiếng Ta, Ta biết chúng, và chúng theo Ta. 28. Ta ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất bao giờ, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Ta. 29. Cha của Ta, là Đấng vĩ đại hơn tất cả, đã cho Ta những chiên đó, và không ai có thể giật chúng khỏi tay của Cha. 30. Ta với Cha là một.”

31. Do đó, những người Do Thái một lần nữa lại nhặt đá để ném Ngài. 32. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Ta đã bày tỏ cho các ngươi nhiều việc tốt đẹp từ Cha; như vậy vì cớ điều nào trong những điều này mà các ngươi ném đá Ta?” 33. Những người Do Thái trả lời Ngài: “Chúng tôi không ném đá ông vì một việc tốt đẹp, nhưng vì lời phạm thượng; bởi vì ông, là một con người, mà tự cho mình là Đức Chúa Trời.” 34. Đức Chúa Jesus trả lời họ: “Không phải trong luật pháp của các ngươi đã chép: ‘Ta đã nói các ngươi là thần,’ hay sao? 35. Nếu những người, mà lời của Đức Chúa Trời đã đến với họ, được gọi là thần, và lời Kinh Thánh không thể hủy bỏ được, 36. thì Đấng đã được Đức Chúa Cha biệt riêng ra thánh và sai đến thế gian, thì các ngươi lại nói rằng 'Ngươi phạm thượng', bởi vì Ta đã nói rằng: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời’? 37. Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta thì đừng tin Ta. 38. Nhưng nếu Ta đã làm, thì dù các ngươi không tin Ta, hãy tin những công việc, để các ngươi có thể biết và hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” 39. Vì vậy, họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài đã đi khỏi tầm tay của họ.

40. Và rồi một lần nữa Ngài khởi hành đi qua phía bên kia của Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm báp-têm lần đầu tiên, rồi Ngài ở lại đó. 41. Nhiều người đã đến với Ngài, và nói rằng: “Thật ra Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng tất cả những điều Giăng đã nói về người nầy đều là thật.” 42. Tại đó có nhiều người tin Ngài.

Bản Dịch 1925

1. Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào chẳng bởi cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào từ nơi khác, thì người đó là trộm cướp. 2. Nhưng kẻ bởi cửa mà vào, là người chăn chiên. 3. Người canh cửa mở cho chiên nghe tiếng người chăn; người chăn kêu tên chiên mình mà dẫn ra ngoài. 4. Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. 5. Nhưng chiên chẳng theo người lạ; trái lại nó chạy trốn, vì chẳng quen tiếng người lạ. 6. Đức Chúa Jêsus phán lời ví dụ đó, nhưng chúng không hiểu Ngài muốn nói chi.

7. Đức Chúa Jêsus lại phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta là cửa của chiên. 8. Hết thảy những kẻ đã đến trước ta đều là quân trộm cướp; nhưng chiên không nghe chúng nó. 9. Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ. 10. Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.

11. Ta là người chăn hiền lành; người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình. 12. Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không phải thuộc về nó. Nếu thấy muôn sói đến thì nó bỏ chiên chạy trốn; muôn sói cướp lấy chiên và làm cho tản lạc. 13. Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo lắng chi đến chiên.

14. Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta, 15. cũng như Cha biết ta và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình. 16. Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; ta cũng phải dẫn nó về nữa. Chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi. 17. Nầy, tại sao Cha yêu ta: Ấy vì ta phó sự sống mình để được lấy lại. 18. Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha ta.

19. Nhân những lời đó người Giu-đa lại chia phe ra nữa. 20. Phần nhiều người trong đám họ nói rằng: Người bị quỉ ám, người là điên sao các ngươi nghe làm chi?

21. Kẻ khác nói rằng: Ấy đó chẳng phải là lời nói của một kẻ bị quỉ ám. Quỉ há có thể mở mắt kẻ mù được sao?

22. Tại thành Giê-ru-sa-lem có giữ lễ Khánh Thành đền thờ. Bấy giờ là mùa đông;

23. Đức Chúa Jêsus đi dạo trong đền thờ, dưới hiên cửa Sa-lô-môn. 24. Người Giu-đa nhóm xung quanh Ngài mà nói rằng: Thầy để chúng tôi nghĩ vơ vẫn mãi cho đến khi nào? Nếu thầy là Đấng Christ, hãy nói rõ cho chúng tôi. 25. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta đã bảo các ngươi, mà các ngươi không tin; những việc ta nhân danh Cha ta mà làm đều làm chứng cho ta. 26. Nhưng các ngươi không tin ta, vì các ngươi chẳng phải là chiên của ta. 27. Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta. 28. Ta ban cho nó sự sống đời đời; nó chẳng chết mất bao giờ, và chẳng ai cướp nó khỏi tay ta. 29. Cha ta là Đấng lớn hơn hết đã cho ta chiên đó, và chẳng ai cướp nổi chiên đó khỏi tay Cha. 30. Ta với Cha là một.

31. Người Giu-đa lại lượm đá đặng ném Ngài 32. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta đã làm trước mắt các ngươi lắm việc lành bởi Cha đến; vì việc chi mà các ngươi ném đá ta?

33. Người Giu-đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời.

34. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng: Ta đã phán: Các ngươi là các thần, hay sao? 35. Nếu luật pháp gọi những kẻ được lời Đức Chúa Trời phán đến là các thần, và nếu Kinh Thánh không thể bỏ được, 36. thì ta đây, là Đấng Cha đã biệt ra thánh, và sai xuống thế gian, nói: Ta là Con Đức Chúa Trời, cớ sao các ngươi cáo ta là nói lộng ngôn? 37. Ví bằng ta không làm những việc của Cha ta, thì các ngươi chớ tin ta. 38. Còn nếu ta làm, thì, dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha. 39. Chúng còn kiếm cách để bắt Ngài nữa; nhưng Ngài tránh khỏi tay họ.

40. Đoạn, Ngài lại sang bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp tem trước hết, và trú tại đó. 41. Có nhiều kẻ đến cùng Ngài, mà nói rằng: Giăng chưa làm một phép lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy là thật. 42. Tại đó có nhiều người tin Ngài.

Bản Dịch 2011

Người Chăn Tốt

1 “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, người nào không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo vào bằng lối khác, là kẻ trộm cướp. 2 Nhưng ai đi qua cửa mà vào ràn chiên là người chăn chiên. 3 Người giữ cửa mở cửa cho người ấy, và chiên nhận ra tiếng người ấy. Người ấy gọi tên các chiên mình và dẫn chúng ra ngoài. 4 Khi đàn chiên của người ấy ra hết, người ấy đi trước, và đàn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người ấy. 5 Chiên không đi theo người lạ, nhưng chạy trốn người lạ, vì chúng không quen tiếng người lạ.”

6 Ðức Chúa Jesus dùng ngụ ngôn này để nói với họ, nhưng họ không hiểu ý nghĩa những điều Ngài nói với họ.

7 Ðức Chúa Jesus lại nói với họ, “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, Ta là cửa để chiên ra vào. 8 Tất cả những kẻ đã đến trước Ta đều là trộm cướp, và chiên không nghe theo chúng. 9 Ta là cái cửa; nếu ai bởi Ta mà vào, người ấy sẽ được cứu, và sẽ vào ra và gặp đồng cỏ. 10 Kẻ trộm đến chỉ để lấy cắp, giết hại, và tiêu diệt. Ta đến để chiên được sống và được sống dư dật.

11 Ta là người chăn tốt; người chăn tốt hy sinh tính mạng mình cho chiên. 12 Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn thật, vì chiên không phải của nó. Khi thấy muông sói đến, nó bỏ chiên chạy trốn. Muông sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tan lạc. 13 Kẻ chăn thuê bỏ chạy, vì nó chỉ làm thuê và không quan tâm đến chiên. 14 Ta là người chăn tốt; Ta biết chiên Ta, và chiên Ta biết Ta, 15 cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha. Ta hy sinh tính mạng mình cho chiên. 16 Ta còn những chiên khác chưa thuộc về ràn này; Ta cũng phải đưa chúng về, và chúng sẽ nghe tiếng Ta, rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn.

17 Ðây là lý do tại sao Cha thương yêu Ta; bởi vì Ta phó mạng sống mình để Ta sẽ lấy lại. 18 Không ai cất lấy mạng sống Ta, nhưng Ta tự phó cho. Ta có quyền phó mạng sống mình, và Ta có quyền lấy lại. Mệnh lệnh này Ta đã nhận từ Cha Ta.”

19 Vì những lời ấy người Do-thái lại chia rẽ nhau nữa. 20 Nhiều người giữa họ nói rằng, “Ông ấy bị quỷ ám và điên rồi. Sao các người còn nghe ông ấy làm chi?”

21 Nhưng những người khác lại bảo, “Những lời này đâu phải là lời nói của người bị quỷ ám. Người bị quỷ ám làm sao mở mắt người mù được?”

Người Do-thái Khước Từ Chúa

22 Mùa đông ấy có lễ kỷ niệm đền thờ được cung hiến tại Giê-ru-sa-lem. 23 Ðức Chúa Jesus đi dạo ở Hành Lang Sa-lô-môn trong sân đền thờ. 24 Người Do-thái kéo đến quanh Ngài và nói với Ngài, “Thầy cứ để chúng tôi phân vân mãi cho đến bao giờ? Nếu Thầy là Ðấng Christ, xin nói thẳng cho chúng tôi biết đi.”

25 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Ta đã nói với các ngươi nhưng các ngươi không tin. Những việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện làm chứng cho Ta. 26 Nhưng các ngươi không tin, vì các ngươi không phải chiên Ta. 27 Chiên Ta nghe tiếng Ta; Ta biết chúng, và chúng theo Ta. 28 Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Chúng sẽ không bao giờ chết mất. Không ai sẽ cướp chúng khỏi tay Ta. 29 Cha Ta, Ðấng vĩ đại hơn tất cả, đã ban những chiên ấy cho Ta. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha. 30 Ta với Cha là một.”

31 Người Do-thái lại lượm đá để ném Ngài. 32 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Ta đã làm trước mắt các ngươi biết bao việc tốt đẹp của Cha giao; vì việc nào trong các việc đó mà các ngươi muốn ném đá Ta?”

33 Người Do-thái trả lời Ngài, “Không phải vì một việc tốt đẹp nào Thầy làm mà chúng tôi muốn ném đá Thầy, nhưng vì Thầy đã phạm thượng. Thầy chỉ là người mà tự cho mình là Ðức Chúa Trời.”

34 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Chẳng phải trong Luật Pháp các ngươi chép,

‘Ta nói, “Các ngươi là các thần”’

hay sao? 35 Nếu những người được lời Ðức Chúa Trời phán với mà được Ngài gọi là ‘các thần’ –và lời Kinh Thánh không thể bị phế bỏ– 36 thì tại sao các ngươi kết tội Ta, người đã được Cha biệt riêng ra thánh và sai xuống thế gian rằng, ‘Thầy đã phạm thượng’ vì Ta nói, ‘Ta là Con Ðức Chúa Trời’? 37 Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, đừng tin Ta. 38 Nhưng nếu Ta làm, dù các ngươi không tin Ta, hãy tin những việc Ta làm, để các ngươi biết và hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.”

39 Vậy họ tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.

Chúa Lui Về Bên Kia Sông Giô-đanh

40 Ngài trở qua bên kia Sông Giô-đanh, nơi Giăng đã làm báp-têm trước kia, và ở lại đó. 41 Nhiều người đến gặp Ngài và nói, “Giăng chẳng làm phép lạ nào, nhưng tất cả những gì Giăng nói về người này đều đúng.” 42 Nhiều người tin Ngài tại đó.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành