Thi Thiên: Chương 10
Bản Dịch 1926
1. Đức Giê-hô-va ôi! vì cớ gì Ngài đứng xa, Lúc gian truân tại sao Ngài ẩn mình đi?
2. Kẻ ác, vì lòng kiêu ngạo, hăm hở rượt theo người khốn cùng; Nguyện chúng nó phải mắc trong mưu chước mình đã toan.
3. Vì kẻ ác tự khoe về lòng dục mình; Kẻ tham của từ bỏ Đức Giê-hô-va, và khinh dể Ngài.
4. Kẻ ác bộ mặt kiêu ngạo mà rằng: Ngài sẽ không hề hạch hỏi. Chẳng có Đức Chúa Trời: kìa là tư tưởng của hắn.
5. Các đường hắn đều may mắn luôn luôn; Sự đoán xét của Chúa cao quá, mắt hắn chẳng thấy được; Hắn chê hết thảy kẻ thù nghịch mình.
6. Hắn nghĩ rằng: Ta sẽ chẳng lay động; Ta sẽ không bị tai họa gì đến đời đời.
7. Miệng hắn đầy sự nguyền rủa, sự giả dối, và sự gian lận; Dưới lưỡi nó chỉ có sự khuấy khỏa và gian ác.
8. Hắn ngồi nơi rình rập của làng, giết kẻ vô tội trong nơi ẩn khuất; Con mắt hắn dòm hành người khốn khổ.
9. Hắn phục trong nơi kín đáo như sư tử trong hang nó; Hắn rình rập đặng bắt người khốn cùng; Khi hắn kéo kẻ khốn cùng vào lưới mình, thì đã bắt được nó rồi.
10. Hắn chùm hum, và cúi xuống, Kẻ khốn khổ sa vào vấu hắn.
11. Hắn nghĩ rằng: Đức Chúa Trời quên rồi, Ngài đã ẩn mặt, sẽ không hề xem xét.
12. Đức Giê-hô-va ôi! xin hãy chỗi dậy; Hỡi Đức Chúa Trời, hãy giơ tay Ngài lên; Chớ quên kẻ khốn cùng.
13. Vì cớ sao kẻ ác khinh dể Đức Chúa Trời, Và nghĩ rằng: Chúa sẽ chẳng hề hạch hỏi?
14. Chúa đã thấy rồi; vì Chúa xem xét sự bạo tàn và sự độc hại, Để lấy chính tay Chúa mà báo trả lại; Còn kẻ khốn khổ phó mình cho Chúa; Chúa là Đấng giúp đỡ kẻ mồ côi.
15. Hãy bẻ gãy cánh tay kẻ ác, Và tra tìm sự gian ác của kẻ dữ cho đến không còn thấy gì nữa.
16. Đức Giê-hô-va làm Vua đến đời đời vô cùng; Các ngoại bang bị diệt mất khỏi đất của Ngài.
17. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nghe lời ước ao của kẻ hiền từ; Khiến lòng họ được vững bền, và cũng đã lắng tai nghe,
18. Đặng xét công bình việc kẻ mồ côi và người bị hà hiếp, Hầu cho loài người, vốn bởi đất mà ra, không còn làm cho sợ hãi nữa.
Bản Dịch 2011
Xin CHÚA Loại Trừ Kẻ Gian Ác
1. CHÚA ôi, sao Ngài vẫn còn đứng đằng xa?
Tại sao Ngài nỡ ẩn mình trong khi con bị nguy nan?
2. Kẻ ác đã kiêu căng bách hại những người nghèo khó;
Nguyện chúng bị sa vào mưu chước do chúng vạch ra.
3. Vì kẻ ác khoe khoang lòng tham muốn của nó;
Nó giúp đỡ kẻ gian tham và lên mặt khinh thị CHÚA.
4. Kẻ ác đã không tìm cầu Ngài mà còn vênh mặt kiêu căng;
Trong mọi tư tưởng của nó, nó đều cho rằng, “Chẳng có Ðức Chúa Trời.”
5. Thế mà đường lối của nó luôn được may mắn.
Sự phán xét của Ngài cao quá tầm mắt nó.
Ðối với những người chống đối nó, nó khinh bỉ ra mặt.
6. Nó tự phụ trong lòng rằng, “Ta sẽ không bị rúng động;
Từ đời nầy sang đời khác, ta sẽ không bao giờ gặp tai họa.”
7. Miệng nó chứa đầy những lời chưởi thề, nói dối, và đe dọa;
Dưới lưỡi nó có biết bao hiểm ác và tội lỗi.
8. Nó ngồi phục kích trong các xóm làng;
Từ những nơi nó mai phục, nó giết hại những người vô tội;
Cặp mắt nó luôn theo dõi những người nghèo khó.
9. Nó âm thầm nằm đợi, như sư tử nằm rình trong bụi;
Nó nằm rình, chờ vồ lấy người nghèo khó.
Nó vồ được người nghèo khó, rồi kéo người ấy vào trong lưới.
10. Nó ghì xuống, và nạn nhân nó bó tay chịu trận;
Người nghèo khó ngã quỵ dưới sức mạnh của nó.
11. Nó tự nhủ trong lòng, “Ðức Chúa Trời đã quên rồi;
Ngài đã ẩn mặt rồi, và Ngài sẽ không bao giờ thấy việc nầy.”
12. CHÚA ôi, xin trỗi dậy,
Ðức Chúa Trời ôi, xin nhấc cánh tay Ngài lên.
Xin Ngài đừng quên những người bị áp bức.
13. Sao kẻ ác dám khinh thị Ðức Chúa Trời?
Sao lòng nó dám nghĩ, “Ngài sẽ không bao giờ tra xét?”
14. Nhưng Ngài đã thấy hết, vì Ngài đã ghi nhận những tội ác và những khổ đau,
Để chính tay Ngài sẽ báo trả.
Người nghèo khó phó thác đời sống mình cho Ngài, vì Ngài là Ðấng giúp đỡ kẻ đơn côi.
15. Xin Ngài bẻ gãy cánh tay kẻ ác và kẻ làm điều gian tà;
Xin Ngài truy cứu các việc gian ác của chúng, cho đến khi không còn tìm ra tội lỗi nào nữa.
16. CHÚA là Vua đời đời vô cùng;
Những dân vô tín sẽ bị diệt mất khỏi đất của Ngài.
17. CHÚA ôi, xin Ngài dủ nghe ước nguyện của kẻ thấp hèn;
Xin Ngài làm cho họ được vững lòng;
Xin Ngài nghiêng tai nghe,
18. Ðể thực hiện công lý cho kẻ đơn côi và người bị áp bức,
Hầu những kẻ ra từ bụi đất sẽ không còn gây kinh hãi nữa.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1926 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Thi Thiên
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành