Khác biệt giữa các bản “Hê-bơ-rơ: Chương 6”
(Bản Dịch 1926 to Bản Dịch 1925) |
(Update Ban Dich 2011) |
||
| Dòng 8: | Dòng 8: | ||
13. Khi Đức Chúa Trời hứa cùng Áp-ra-ham, và vì không thể chỉ Đấng nào lớn hơn, nên Ngài chỉ chính mình Ngài mà thề với người rằng: 14. Chắc ta sẽ ban phước cho ngươi nhiều, và khiến hậu tự ngươi sanh sản đông thêm. 15. Ấy, Áp-ra-ham đã nhịn nhục đợi chờ như vậy, rồi mới được điều đã hứa. 16. Người ta thường mượn danh một Đấng lớn hơn mình mà thề, phàm có cãi lẫy điều gì, thì lấy lời thề mà định. 17. Đức Chúa Trời cũng vậy, muốn càng tỏ ra cho những kẻ hưởng lời hứa biết ý định Ngài là chắc chắn không thay đổi, thì dùng lời thề; 18. hầu cho nhờ hai điều chẳng thay đổi đó, và về hai điều ấy Đức Chúa Trời chẳng có thể nói dối, mà chúng ta tìm được sự yên ủi lớn mạnh, là kẻ đã trốn đến nơi ẩn náu, mà cầm lấy sự trông cậy đã đặt trước mặt chúng ta. 19. Chúng ta giữ điều trông cậy nầy như cái neo của linh hồn, vững vàng bền chặt, thấu vào phía trong màn, 20. trong nơi thánh mà Đức Chúa Jêsus đã vào như Đấng đi trước của chúng ta, vì đã trở nên thầy tế lễ thượng phẩm đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc. <br/> | 13. Khi Đức Chúa Trời hứa cùng Áp-ra-ham, và vì không thể chỉ Đấng nào lớn hơn, nên Ngài chỉ chính mình Ngài mà thề với người rằng: 14. Chắc ta sẽ ban phước cho ngươi nhiều, và khiến hậu tự ngươi sanh sản đông thêm. 15. Ấy, Áp-ra-ham đã nhịn nhục đợi chờ như vậy, rồi mới được điều đã hứa. 16. Người ta thường mượn danh một Đấng lớn hơn mình mà thề, phàm có cãi lẫy điều gì, thì lấy lời thề mà định. 17. Đức Chúa Trời cũng vậy, muốn càng tỏ ra cho những kẻ hưởng lời hứa biết ý định Ngài là chắc chắn không thay đổi, thì dùng lời thề; 18. hầu cho nhờ hai điều chẳng thay đổi đó, và về hai điều ấy Đức Chúa Trời chẳng có thể nói dối, mà chúng ta tìm được sự yên ủi lớn mạnh, là kẻ đã trốn đến nơi ẩn náu, mà cầm lấy sự trông cậy đã đặt trước mặt chúng ta. 19. Chúng ta giữ điều trông cậy nầy như cái neo của linh hồn, vững vàng bền chặt, thấu vào phía trong màn, 20. trong nơi thánh mà Đức Chúa Jêsus đã vào như Đấng đi trước của chúng ta, vì đã trở nên thầy tế lễ thượng phẩm đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc. <br/> | ||
| + | |||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
| − | '''Hậu Quả Khủng Khiếp của Kẻ Bỏ Ðạo''' | + | '''Hậu Quả Khủng Khiếp của Kẻ Bỏ Ðạo''' |
| + | |||
| + | 1 Vậy chúng ta hãy gác bỏ sau lưng những bài học sơ đẳng về Ðấng Christ mà tiến tới sự trưởng thành, không đặt lại nền tảng cho sự ăn năn từ bỏ những công việc chết, đức tin nơi Ðức Chúa Trời, 2 tín lý về lễ báp-têm, tín lý về sự đặt tay, tín lý về sự phục sinh từ cõi chết, và tín lý về sự phán xét đời đời. 3 Ấy là những điều chúng ta sẽ làm nếu Ðức Chúa Trời cho phép. | ||
| + | |||
| + | 4 Thật không thể nào làm cho những người đã một lần được soi sáng, đã nếm trải ơn thiên thượng, đã trở thành những người dự phần ân tứ của Ðức Thánh Linh, 5 đã nếm trải lời tốt đẹp của Ðức Chúa Trời và những quyền phép của đời sắp đến, 6 mà sa ngã, lại phục hồi để ăn năn được, vì họ đã tự tay đóng đinh Con Ðức Chúa Trời một lần nữa và công khai sỉ nhục Ngài. | ||
| + | |||
| + | 7 Vì mảnh đất nào thấm nhuần nước mưa thường xuyên và sinh hoa màu tốt đẹp cho người canh tác, thì mảnh đất ấy nhận được phước hạnh từ Ðức Chúa Trời; 8 nhưng mảnh đất nào chỉ sinh gai góc và bụi gai, thì ấy là mảnh đất bỏ đi, gần như bị nguyền rủa, cuối cùng sẽ bị đốt. | ||
| + | |||
| + | '''Bảo Ðảm Hy Vọng Bằng Sự Nhiệt Thành Phục Vụ''' | ||
| + | |||
| + | 9 Thưa anh chị em yêu dấu, dù chúng tôi nói thế, nhưng chúng tôi vẫn tin quả quyết rằng trường hợp của anh chị em thì tốt đẹp hơn và thuận lợi hơn để anh chị em hưởng ơn cứu rỗi. 10 Vì Ðức Chúa Trời không bất công mà quên công việc và tình yêu anh chị em đã thể hiện vì danh Ngài, khi anh chị em phục vụ các thánh đồ và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. 11 Chúng tôi mong ước mỗi người trong anh chị em đều biểu lộ lòng nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh chị em được bảo đảm cho đến cùng. 12 Làm như thế anh chị em sẽ không trở nên lờ đờ, nhưng bắt chước những người nhờ đức tin và lòng kiên trì mà thừa hưởng những lời hứa. | ||
| + | |||
| + | '''Ðức Chúa Trời Chắc Chắn Thực Hiện Lời Hứa của Ngài''' | ||
| + | |||
| + | 13 Khi Ðức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, Ngài không thể chỉ ai lớn hơn Ngài để thề, nên Ngài đã chỉ chính Ngài mà thề 14 rằng, | ||
| + | |||
| + | “Ta chắc chắn sẽ ban phước cho ngươi, và Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi gia tăng lên nhiều.” | ||
| + | |||
| + | 15 Và vì thế ông đã bền chí đợi chờ, và đã nhận được điều đã hứa. | ||
| + | |||
| + | 16 Vì người ta thường chỉ vào một đấng lớn hơn mình để thề, và lời thề là sự xác định để kết thúc mọi cuộc tranh chấp. 17 Cũng thế Ðức Chúa Trời càng muốn chứng tỏ cho những người thừa hưởng lời hứa biết tính bất di bất dịch của mục đích Ngài, Ngài đã bảo đảm bằng một lời thề, 18 để qua hai điều bất di bất dịch ấy, tức hai điều Ðức Chúa Trời không thể nói dối, chúng ta, những kẻ chạy đến ẩn náu, có được sự khích lệ mạnh mẽ để nắm chặt lấy hy vọng đã đặt trước mặt mình. 19 Chúng ta nắm chặt lấy hy vọng đó như bám giữ cái neo chắc chắn và vững chãi của linh hồn, đã được neo chặt bên trong bức màn, 20 nơi Ðức Chúa Jesus, Ðấng đi tiên phong mở đường cho chúng ta, đã vào, khi Ngài trở thành Vị Thượng Tế đời đời theo dòng Mên-chi-xê-đéc. | ||
| + | |||
==Tài Liệu== | ==Tài Liệu== | ||
| + | |||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | ||
| + | |||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | ||
| + | |||
:* [[Hê-bơ-rơ]] | :* [[Hê-bơ-rơ]] | ||
| + | |||
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | :* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | ||
Phiên bản lúc 23:37, ngày 20 tháng 1 năm 2020
Bản Dịch 1925
1. Ấy vậy, chúng ta phải bỏ qua các điều sơ học về Tin Lành của Đấng Christ, mà tấn tới sự trọn lành, chớ nên lập lại nền nữa, tức là: từ bỏ các việc chết, tin Đức Chúa Trời, 2. sự dạy về phép báp tem, phép đặt tay, sự kẻ chết sống lại, sự phán xét đời đời. 3. Ví bằng Đức Chúa Trời cho phép, thì chúng ta sẽ làm điều đó.
4. Vì chưng những kẻ đã được soi sáng một lần, đã nếm sự ban cho từ trên trời, dự phần về Đức Thánh Linh, 5. nếm đạo lành Đức Chúa Trời, và quyền phép của đời sau, 6. nếu lại vấp ngã, thì không thể khiến họ lại ăn năn nữa, vì họ đóng đinh Con Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình một lần nữa, làm cho Ngài sỉ nhục tỏ tường. 7. Vả, một đám đất nhờ mưa đượm nhuần mà sanh cây cỏ có ích cho người cày cấy, thì đất đó hưởng phần phước lành của Đức Chúa Trời. 8. Nhưng đất nào chỉ sanh ra những cỏ rạ, gai gốc, thì bị bỏ, và hầu bị rủa, cuối cùng phải bị đốt.
9. Hỡi những kẻ rất yêu dấu, dẫu chúng ta nói vậy, vẫn còn đang trông đợi những việc tốt hơn từ nơi anh em, là những việc đưa đến sự cứu rỗi. 10. Đức Chúa Trời không phải là không công bình mà bỏ quên công việc và lòng yêu thương của anh em đã tỏ ra vì danh Ngài, trong khi hầu việc các thánh đồ và hiện nay đang còn hầu việc nữa. 11. Nhưng chúng ta mong rằng mỗi người trong anh em tỏ lòng sốt sắng như vậy, đặng giữ lòng đầy dẫy sự trông cậy cho đến cuối cùng; 12. đến nỗi anh em không trễ nải, nhưng cứ học đòi những kẻ bởi đức tin và lòng nhịn nhục mà được hưởng lời hứa.
13. Khi Đức Chúa Trời hứa cùng Áp-ra-ham, và vì không thể chỉ Đấng nào lớn hơn, nên Ngài chỉ chính mình Ngài mà thề với người rằng: 14. Chắc ta sẽ ban phước cho ngươi nhiều, và khiến hậu tự ngươi sanh sản đông thêm. 15. Ấy, Áp-ra-ham đã nhịn nhục đợi chờ như vậy, rồi mới được điều đã hứa. 16. Người ta thường mượn danh một Đấng lớn hơn mình mà thề, phàm có cãi lẫy điều gì, thì lấy lời thề mà định. 17. Đức Chúa Trời cũng vậy, muốn càng tỏ ra cho những kẻ hưởng lời hứa biết ý định Ngài là chắc chắn không thay đổi, thì dùng lời thề; 18. hầu cho nhờ hai điều chẳng thay đổi đó, và về hai điều ấy Đức Chúa Trời chẳng có thể nói dối, mà chúng ta tìm được sự yên ủi lớn mạnh, là kẻ đã trốn đến nơi ẩn náu, mà cầm lấy sự trông cậy đã đặt trước mặt chúng ta. 19. Chúng ta giữ điều trông cậy nầy như cái neo của linh hồn, vững vàng bền chặt, thấu vào phía trong màn, 20. trong nơi thánh mà Đức Chúa Jêsus đã vào như Đấng đi trước của chúng ta, vì đã trở nên thầy tế lễ thượng phẩm đời đời, theo ban Mên-chi-xê-đéc.
Bản Dịch 2011
Hậu Quả Khủng Khiếp của Kẻ Bỏ Ðạo
1 Vậy chúng ta hãy gác bỏ sau lưng những bài học sơ đẳng về Ðấng Christ mà tiến tới sự trưởng thành, không đặt lại nền tảng cho sự ăn năn từ bỏ những công việc chết, đức tin nơi Ðức Chúa Trời, 2 tín lý về lễ báp-têm, tín lý về sự đặt tay, tín lý về sự phục sinh từ cõi chết, và tín lý về sự phán xét đời đời. 3 Ấy là những điều chúng ta sẽ làm nếu Ðức Chúa Trời cho phép.
4 Thật không thể nào làm cho những người đã một lần được soi sáng, đã nếm trải ơn thiên thượng, đã trở thành những người dự phần ân tứ của Ðức Thánh Linh, 5 đã nếm trải lời tốt đẹp của Ðức Chúa Trời và những quyền phép của đời sắp đến, 6 mà sa ngã, lại phục hồi để ăn năn được, vì họ đã tự tay đóng đinh Con Ðức Chúa Trời một lần nữa và công khai sỉ nhục Ngài.
7 Vì mảnh đất nào thấm nhuần nước mưa thường xuyên và sinh hoa màu tốt đẹp cho người canh tác, thì mảnh đất ấy nhận được phước hạnh từ Ðức Chúa Trời; 8 nhưng mảnh đất nào chỉ sinh gai góc và bụi gai, thì ấy là mảnh đất bỏ đi, gần như bị nguyền rủa, cuối cùng sẽ bị đốt.
Bảo Ðảm Hy Vọng Bằng Sự Nhiệt Thành Phục Vụ
9 Thưa anh chị em yêu dấu, dù chúng tôi nói thế, nhưng chúng tôi vẫn tin quả quyết rằng trường hợp của anh chị em thì tốt đẹp hơn và thuận lợi hơn để anh chị em hưởng ơn cứu rỗi. 10 Vì Ðức Chúa Trời không bất công mà quên công việc và tình yêu anh chị em đã thể hiện vì danh Ngài, khi anh chị em phục vụ các thánh đồ và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. 11 Chúng tôi mong ước mỗi người trong anh chị em đều biểu lộ lòng nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh chị em được bảo đảm cho đến cùng. 12 Làm như thế anh chị em sẽ không trở nên lờ đờ, nhưng bắt chước những người nhờ đức tin và lòng kiên trì mà thừa hưởng những lời hứa.
Ðức Chúa Trời Chắc Chắn Thực Hiện Lời Hứa của Ngài
13 Khi Ðức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, Ngài không thể chỉ ai lớn hơn Ngài để thề, nên Ngài đã chỉ chính Ngài mà thề 14 rằng,
“Ta chắc chắn sẽ ban phước cho ngươi, và Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi gia tăng lên nhiều.”
15 Và vì thế ông đã bền chí đợi chờ, và đã nhận được điều đã hứa.
16 Vì người ta thường chỉ vào một đấng lớn hơn mình để thề, và lời thề là sự xác định để kết thúc mọi cuộc tranh chấp. 17 Cũng thế Ðức Chúa Trời càng muốn chứng tỏ cho những người thừa hưởng lời hứa biết tính bất di bất dịch của mục đích Ngài, Ngài đã bảo đảm bằng một lời thề, 18 để qua hai điều bất di bất dịch ấy, tức hai điều Ðức Chúa Trời không thể nói dối, chúng ta, những kẻ chạy đến ẩn náu, có được sự khích lệ mạnh mẽ để nắm chặt lấy hy vọng đã đặt trước mặt mình. 19 Chúng ta nắm chặt lấy hy vọng đó như bám giữ cái neo chắc chắn và vững chãi của linh hồn, đã được neo chặt bên trong bức màn, 20 nơi Ðức Chúa Jesus, Ðấng đi tiên phong mở đường cho chúng ta, đã vào, khi Ngài trở thành Vị Thượng Tế đời đời theo dòng Mên-chi-xê-đéc.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu