Khác biệt giữa các bản “II Sử Ký: Chương 6”
| (Không hiển thị 8 phiên bản của cùng người dùng ở giữa) | |||
| Dòng 5: | Dòng 5: | ||
3. Vua quay mặt trở lại rồi chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong lúc toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. 4. Ông nói: “Chúc tụng Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng đã dùng tay của Ngài để làm trọn mọi điều mà miệng Ngài đã hứa với Ða-vít, là cha của tôi, rằng: 5. 'Từ ngày Ta đem dân của Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân Y-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ cho danh của Ta ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn một người nào để làm lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta. 6. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 7. Ða-vít, là cha của tôi, trong tấm lòng đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8. Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Ða-vít, cha của tôi, rằng: ‘Ngươi có lòng muốn xây một Ðền Thờ cho danh của Ta, ước muốn đó rất tốt. 9. Tuy nhiên ngươi không phải là người xây Ðền Thờ, nhưng con trai của ngươi, là kẻ từ ngươi mà ra, sẽ xây Ðền Thờ cho danh của Ta.' 10. Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm thành tựu những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên để thế vị Ða-vít, cha của tôi, và được ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên như Đức Giê-hô-va đã phán. Tôi đã xây Ðền Thờ nầy cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 11. Tại đó, có một nơi để đặt cái Rương trong đó có đựng giao ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã lập với dân Y-sơ-ra-ên." | 3. Vua quay mặt trở lại rồi chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong lúc toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. 4. Ông nói: “Chúc tụng Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng đã dùng tay của Ngài để làm trọn mọi điều mà miệng Ngài đã hứa với Ða-vít, là cha của tôi, rằng: 5. 'Từ ngày Ta đem dân của Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân Y-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ cho danh của Ta ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn một người nào để làm lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta. 6. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 7. Ða-vít, là cha của tôi, trong tấm lòng đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8. Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Ða-vít, cha của tôi, rằng: ‘Ngươi có lòng muốn xây một Ðền Thờ cho danh của Ta, ước muốn đó rất tốt. 9. Tuy nhiên ngươi không phải là người xây Ðền Thờ, nhưng con trai của ngươi, là kẻ từ ngươi mà ra, sẽ xây Ðền Thờ cho danh của Ta.' 10. Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm thành tựu những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên để thế vị Ða-vít, cha của tôi, và được ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên như Đức Giê-hô-va đã phán. Tôi đã xây Ðền Thờ nầy cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 11. Tại đó, có một nơi để đặt cái Rương trong đó có đựng giao ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã lập với dân Y-sơ-ra-ên." | ||
| − | 12. Ông đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, trong sự hiện diện của toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, rồi đưa tay lên. 13. - Vì Sa-lô-môn đã làm một cái bục bằng đồng, dài năm cu-bít, rộng năm cu-bít, cao ba cu-bít, đặt giữa sân. - Ông đã đứng trên đó, rồi quỳ gối xuống trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trời. 14. Ông nói: | + | 12. Ông đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, trong sự hiện diện của toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, rồi đưa tay lên. 13. - Vì Sa-lô-môn đã làm một cái bục bằng đồng, dài năm cu-bít, rộng năm cu-bít, cao ba cu-bít, đặt giữa sân. - Ông đã đứng trên đó, rồi quỳ gối xuống trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trời. 14. Ông nói: |
| − | + | “Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào giống như Ngài ở trên trời hay dưới đất, Ngài gìn giữ giao ước và lòng yêu thương nhân từ đối với các tôi tớ của Ngài khi họ hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15. Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ của Ngài, là Đa-vít, cha của con. Ðiều mà miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16. Vì vậy bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít, cha của con, rằng: ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu của ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng để đi theo luật lệ của Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17. Vì vậy, lạy Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Cầu xin những lời Ngài đã hứa với Ða-vít, tôi tớ Ngài, được ứng nghiệm." | |
| − | + | 18. "Nhưng thật ra làm thế nào Đức Chúa Trời sẽ sống với loài người trên mặt đất, bởi vì bầu trời, ngay cả bầu trời của các tầng trời còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi đền mà con đã xây cất! 19. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài. Xin lắng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện của đầy tớ Ngài đang cầu khẩn trước mặt Ngài. 20. Nguyện mắt Ngài ngày và đêm đoái xem ngôi đền nầy, là nơi Ngài đã phán: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. 21. Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của Y-sơ-ra-ên, là dân của Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ nơi Ngài ngự trên trời, xin Ngài lắng nghe; và khi Ngài đã lắng nghe, xin Ngài tha thứ." | |
| + | 22. "Nếu có ai phạm tội đối với người khác và người ta bắt người đó phải thề, khi người đó đến thề trước bàn thờ của Ngài trong Ðền Thờ nầy, 23. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ của Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài xử công minh cho người ngay lành và ban thưởng cho người vì sự ngay lành của người." | ||
| + | 24. "Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội với Ngài và bị thất bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh của Ngài, cầu nguyện, và cầu xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 25. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe. Xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và đem họ trở về xứ sở mà Ngài đã ban cho họ và cho tổ phụ của họ." | ||
| + | |||
| + | 26. "Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì dân chúng đã phạm tội với Ngài, nhưng nếu họ hướng về nơi nầy để cầu nguyện, xưng nhận danh của Ngài, lìa bỏ những tội lỗi của họ khiến Ngài sửa phạt họ, 27. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe. Xin Ngài tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ của Ngài, và của Y-sơ-ra-ên, là dân của Ngài. Khi Ngài dạy họ con đường tốt mà họ phải đi, xin hãy ban mưa xuống xứ sở của Ngài mà Ngài đã ban cho dân của Ngài làm sản nghiệp." | ||
| + | |||
| + | 28. "Nếu trong xứ có nạn đói, dịch bệnh, hạn hán, nấm mốc, cào cào hay châu chấu, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, hoặc có bất cứ tai họa hay bệnh tật nào, 29. nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Ngài nhận biết tai họa và sự đau đớn của mình mà đưa tay hướng về Ðền Thờ nầy cầu nguyện và khẩn xin bất cứ điều gì, 30. cầu xin Ngài từ nơi Ngài ngự trên trời hãy lắng nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết trong lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ – bởi vì chỉ một mình Ngài biết rõ tấm lòng của con người – 31. để họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong những đường lối của Ngài trọn đời của họ trong đất mà Ngài đã ban cho tổ phụ của chúng con." | ||
| + | |||
| + | 32. "Hơn thế nữa, khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về cánh tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và cầu nguyện trong Ðền Thờ nầy, 33. cầu xin Ngài từ trên trời, từ nơi Ngài đang ngự hãy lắng nghe. Xin Ngài thực hiện tất cả những điều mà người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, để mọi dân trên đất sẽ biết đến danh của Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và họ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh của Ngài." | ||
| + | |||
| + | 34. "Nếu dân của Ngài đi ra chiến đấu chống lại quân thù theo con đường mà Ngài sai họ đi, nếu họ hướng về thành nầy mà Ngài đã chọn và về Ðền Thờ mà con đã xây cho danh của Ngài để cầu nguyện, 35. cầu xin Ngài từ trên trời lắng nghe lời cầu nguyện, nài xin của họ và thực thi công lý cho họ." | ||
| + | |||
| + | 36. "Khi dân chúng phạm tội đối với Ngài – bởi vì không ai mà không phạm tội – họ khiến Ngài giận họ rồi phó họ cho quân thù, chúng bắt họ đem đi lưu đày đến một xứ xa hay gần; 37. nếu tại xứ bị lưu đày, họ hối cãi ăn năn; và trong xứ họ bị lưu đày họ cầu khẩn với Ngài rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian ác’; 38. nếu từ trong xứ bị lưu đày, họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ của họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ mà con đã xây cho danh của Ngài, để cầu nguyện, 39. cầu xin Ngài từ nơi Ngài ngự trên trời hãy lắng nghe lời nài xin của họ, thực thi công lý cho họ, và tha thứ tội mà dân của Ngài đã phạm với Ngài." | ||
| + | |||
| + | 40. "Lạy Đức Chúa Trời của con! Bây giờ, xin mắt Ngài hãy đoái xem và tai Ngài hãy lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi nầy. 41. Vì vậy bây giờ, cầu xin Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời, hãy trỗi dậy. Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài hãy vào nơi an nghỉ. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời! Nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy sự cứu rỗi. Nguyện những người tin kính Ngài được được vui mừng trong ơn lành. 42. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời! Xin đừng từ bỏ người được xức dầu của Ngài. Xin nhớ lại sự nhân từ của Ngài đối với Đa-vít là đầy tớ của Ngài.” | ||
==Bản Dịch 1925== | ==Bản Dịch 1925== | ||
Bản hiện tại lúc 07:28, ngày 13 tháng 10 năm 2025
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Sau đó, Sa-lô-môn nói: “Đức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài thích ngự trong mây dày đặc; 2. nhưng con đã cất một ngôi đền để tôn kính Ngài, một nơi để Ngài ngự đến đời đời.”
3. Vua quay mặt trở lại rồi chúc phước cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên trong lúc toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. 4. Ông nói: “Chúc tụng Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Ðấng đã dùng tay của Ngài để làm trọn mọi điều mà miệng Ngài đã hứa với Ða-vít, là cha của tôi, rằng: 5. 'Từ ngày Ta đem dân của Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân Y-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ cho danh của Ta ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn một người nào để làm lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta. 6. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên của Ta.’ 7. Ða-vít, là cha của tôi, trong tấm lòng đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8. Nhưng Đức Giê-hô-va đã phán với Ða-vít, cha của tôi, rằng: ‘Ngươi có lòng muốn xây một Ðền Thờ cho danh của Ta, ước muốn đó rất tốt. 9. Tuy nhiên ngươi không phải là người xây Ðền Thờ, nhưng con trai của ngươi, là kẻ từ ngươi mà ra, sẽ xây Ðền Thờ cho danh của Ta.' 10. Bây giờ, Đức Giê-hô-va đã làm thành tựu những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên để thế vị Ða-vít, cha của tôi, và được ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên như Đức Giê-hô-va đã phán. Tôi đã xây Ðền Thờ nầy cho danh của Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 11. Tại đó, có một nơi để đặt cái Rương trong đó có đựng giao ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài đã lập với dân Y-sơ-ra-ên."
12. Ông đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, trong sự hiện diện của toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, rồi đưa tay lên. 13. - Vì Sa-lô-môn đã làm một cái bục bằng đồng, dài năm cu-bít, rộng năm cu-bít, cao ba cu-bít, đặt giữa sân. - Ông đã đứng trên đó, rồi quỳ gối xuống trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trời. 14. Ông nói:
“Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào giống như Ngài ở trên trời hay dưới đất, Ngài gìn giữ giao ước và lòng yêu thương nhân từ đối với các tôi tớ của Ngài khi họ hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15. Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ của Ngài, là Đa-vít, cha của con. Ðiều mà miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16. Vì vậy bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít, cha của con, rằng: ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu của ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng để đi theo luật lệ của Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17. Vì vậy, lạy Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Cầu xin những lời Ngài đã hứa với Ða-vít, tôi tớ Ngài, được ứng nghiệm."
18. "Nhưng thật ra làm thế nào Đức Chúa Trời sẽ sống với loài người trên mặt đất, bởi vì bầu trời, ngay cả bầu trời của các tầng trời còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi đền mà con đã xây cất! 19. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của con! Xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của đầy tớ Ngài. Xin lắng nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện của đầy tớ Ngài đang cầu khẩn trước mặt Ngài. 20. Nguyện mắt Ngài ngày và đêm đoái xem ngôi đền nầy, là nơi Ngài đã phán: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. 21. Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của Y-sơ-ra-ên, là dân của Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ nơi Ngài ngự trên trời, xin Ngài lắng nghe; và khi Ngài đã lắng nghe, xin Ngài tha thứ."
22. "Nếu có ai phạm tội đối với người khác và người ta bắt người đó phải thề, khi người đó đến thề trước bàn thờ của Ngài trong Ðền Thờ nầy, 23. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ của Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài xử công minh cho người ngay lành và ban thưởng cho người vì sự ngay lành của người."
24. "Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội với Ngài và bị thất bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh của Ngài, cầu nguyện, và cầu xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 25. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe. Xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, và đem họ trở về xứ sở mà Ngài đã ban cho họ và cho tổ phụ của họ."
26. "Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì dân chúng đã phạm tội với Ngài, nhưng nếu họ hướng về nơi nầy để cầu nguyện, xưng nhận danh của Ngài, lìa bỏ những tội lỗi của họ khiến Ngài sửa phạt họ, 27. cầu xin Ngài từ trời hãy lắng nghe. Xin Ngài tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ của Ngài, và của Y-sơ-ra-ên, là dân của Ngài. Khi Ngài dạy họ con đường tốt mà họ phải đi, xin hãy ban mưa xuống xứ sở của Ngài mà Ngài đã ban cho dân của Ngài làm sản nghiệp."
28. "Nếu trong xứ có nạn đói, dịch bệnh, hạn hán, nấm mốc, cào cào hay châu chấu, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, hoặc có bất cứ tai họa hay bệnh tật nào, 29. nếu có một người hoặc toàn dân Y-sơ-ra-ên của Ngài nhận biết tai họa và sự đau đớn của mình mà đưa tay hướng về Ðền Thờ nầy cầu nguyện và khẩn xin bất cứ điều gì, 30. cầu xin Ngài từ nơi Ngài ngự trên trời hãy lắng nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết trong lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ – bởi vì chỉ một mình Ngài biết rõ tấm lòng của con người – 31. để họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong những đường lối của Ngài trọn đời của họ trong đất mà Ngài đã ban cho tổ phụ của chúng con."
32. "Hơn thế nữa, khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về cánh tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và cầu nguyện trong Ðền Thờ nầy, 33. cầu xin Ngài từ trên trời, từ nơi Ngài đang ngự hãy lắng nghe. Xin Ngài thực hiện tất cả những điều mà người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, để mọi dân trên đất sẽ biết đến danh của Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và họ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh của Ngài."
34. "Nếu dân của Ngài đi ra chiến đấu chống lại quân thù theo con đường mà Ngài sai họ đi, nếu họ hướng về thành nầy mà Ngài đã chọn và về Ðền Thờ mà con đã xây cho danh của Ngài để cầu nguyện, 35. cầu xin Ngài từ trên trời lắng nghe lời cầu nguyện, nài xin của họ và thực thi công lý cho họ."
36. "Khi dân chúng phạm tội đối với Ngài – bởi vì không ai mà không phạm tội – họ khiến Ngài giận họ rồi phó họ cho quân thù, chúng bắt họ đem đi lưu đày đến một xứ xa hay gần; 37. nếu tại xứ bị lưu đày, họ hối cãi ăn năn; và trong xứ họ bị lưu đày họ cầu khẩn với Ngài rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian ác’; 38. nếu từ trong xứ bị lưu đày, họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ của họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ mà con đã xây cho danh của Ngài, để cầu nguyện, 39. cầu xin Ngài từ nơi Ngài ngự trên trời hãy lắng nghe lời nài xin của họ, thực thi công lý cho họ, và tha thứ tội mà dân của Ngài đã phạm với Ngài."
40. "Lạy Đức Chúa Trời của con! Bây giờ, xin mắt Ngài hãy đoái xem và tai Ngài hãy lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi nầy. 41. Vì vậy bây giờ, cầu xin Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời, hãy trỗi dậy. Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài hãy vào nơi an nghỉ. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời! Nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy sự cứu rỗi. Nguyện những người tin kính Ngài được được vui mừng trong ơn lành. 42. Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời! Xin đừng từ bỏ người được xức dầu của Ngài. Xin nhớ lại sự nhân từ của Ngài đối với Đa-vít là đầy tớ của Ngài.”
Bản Dịch 1925
1. Bấy giờ, Sa-lô-môn nói rằng: Đức Giê-hô-va đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong nơi tối thẳm. 2. Nhưng tôi đã cất một cái đền cho Chúa trú ngụ, một nơi cho Chúa ở đời đời. 3. Đoạn vua xây mặt lại chúc phước cho cả hội chúng Y-sơ-ra-ên cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều đứng. 4. Người nói: Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã phán hứa với Đa-vít, cha tôi, và nay lấy tay Ngài mà làm cho thành lời hứa ấy; Ngài rằng: 5. Từ ngày ta đem dân ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô, ta chưa chọn một thành nào trong các chi phái Y-sơ-ra-ên đặng cất một cái đền, để đặt danh ta tại đó, và ta cũng chẳng chọn người nào làm vua chúa trên dân Y-sơ-ra-ên ta; 6. nhưng ta đã chọn Giê-ru-sa-lem, để đặt danh ta tại đó, và chọn Đa-vít đặng cai trị dân Y-sơ-ra-ên ta. 7. Vả, Đa-vít, cha tôi, đã rắp lòng xây đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8. Nhưng Đức Giê-hô-va phán với Đa-vít, cha tôi, rằng: Ngươi có rắp lòng cất một cái đền cho danh ta, ấy thật phải lắm; 9. dầu vậy, ngươi sẽ chẳng cất đền ấy; song con trai ngươi sanh ra sẽ cất cái đền cho danh ta. 10. Đức Giê-hô-va đã làm ứng nghiệm lời Ngài phán, khiến tôi kế cho Đa-vít, cha tôi, lên ngôi trị vì Y-sơ-ra-ên, y như Đức Giê-hô-va đã hứa: nên tôi có cất đền cho danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 11. và tại đền ấy đã đặt cái hòm đựng giao ước của Đức Giê-hô-va mà Ngài lập với dân Y-sơ-ra-ên.
12. Sa-lô-môn đang đứng trước bàn thờ của Đức Giê-hô-va, đối mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay mình ra 13. (vì người đã đóng một cái sạp bằng đồng, bề dài năm thước, bề ngang năm thước, bề cao ba thước, để tại giữa hành lang; người đứng tại đó, quì gối xuống trước mặt cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ tay lên trên trời), 14. mà rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! trên trời và dưới đất, chẳng có thần nào giống như Chúa. Chúa gìn giữ lời giao ước và lòng nhân từ đối với kẻ tôi tớ Chúa, là kẻ hết lòng đi trước mặt Chúa; 15. đối với tôi tớ Chúa là Đa-vít cha tôi, Chúa có gìn giữ lời Chúa đã hứa với người: Thật hễ điều gì miệng Chúa phán, thì tay Chúa đã làm cho hoàn thành, y như đã có ngày nay. 16. Vậy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Chúa đã hứa cùng tôi tớ Chúa là Đa-vít, cha tôi, rằng: Ví bằng con cháu ngươi cẩn thận đường lối mình, giữ theo các luật pháp ta, y như ngươi đã làm, thì trước mặt ta ngươi sẽ chẳng hề thiếu người ngồi trên ngôi Y-sơ-ra-ên; nay cầu xin Chúa hãy giữ gìn lời hứa ấy. 17. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! nguyện lời Chúa đã hứa cùng Đa-vít, tôi tớ Chúa, được ứng nghiệm. 18. Mà chi! Có thật rằng Đức Chúa Trời ngự chung với loài người ở trên đất ư? Kìa trời, cho đến đỗi trời của các từng trời còn chẳng có thế chứa Chúa được thay, phương chi cái đền nầy tôi đã cất! 19. Dầu vậy, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! xin hãy đoái thương lời cầu nguyện và sự nài xin của tôi tớ Chúa, nghe tiếng kêu cầu và khẩn nguyện của tôi tớ Chúa cầu trước mặt Chúa. 20. Nguyện mắt Chúa ngày và đêm đoái xem nhà này, vì về nhà này Chúa đã phán rằng: sẽ đặt danh Chúa tại đó. Khi tôi tớ Chúa hướng nơi này mà cầu nguyện, xin Chúa dủ nghe. 21. Phàm điều gì tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Chúa sẽ cầu khẩn trong khi hướng về nơi này, xin Chúa hãy đủ nghe; phải, ở nơi ngự của Chúa tại trên các từng trời, xin Chúa đủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22. Nếu ai phạm tội cùng kẻ lân cận mình, và người ta bắt nó phải thề, nếu nó đến thề ở trước bàn thờ của Chúa tại trong đền này, 23. thì xin Chúa từ trên trời hãy nghe, thi hành, và xét đoán tôi tớ Chúa, mà báo trả kẻ ác tùy việc nó làm, khiến tội nó đổ lại trên đầu nó, xưng công bình cho người công bình, và thưởng người tùy sự công bình của người.
24. Nếu dân Y-sơ-re-ên của Chúa, vì phạm tội với Chúa, bị quân thù nghịch đánh được, mà chúng trở lại cùng Chúa, nhận biết danh Ngài, và cầu nguyện nài xin trước mặt Chúa trong đền này, 25. thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và khiến họ trở về xứ mà Chúa đã ban cho họ và cho tổ phụ của họ. 26. Khi các từng trời đóng chặt, không có mưa, bởi vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội với Chúa; nếu sau khi Chúa đã đoán phạt họ, họ hướng về nơi này mà cầu nguyện, nhận biết danh Chúa, trở bỏ tội lỗi mình, 27. thì xin Chúa ở trên trời hãy dủ nghe, tha tội cho kẻ tôi tớ Chúa và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, khi Ngài đã dạy cho chúng con đường lành mà chúng phải đi theo, và giáng mưa xuống trên đất mà Chúa đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. 28. Nếu trong xứ có cơn đói kém, ôn dịch, đại hạn, ten sét, cào cào, hay là châu chấu; hoặc kẻ thù nghịch vây hãm các thành trong địa phận họ; bất kỳ có tai vạ gì, tật bịnh gì; 29. ví bằng có một người, hoặc cả dân Y-sơ-ra-ên của Chúa đã nhận biết tai vạ và sự đau đớn của mình, mà giơ tay ra hướng về nhà này, cầu nguyện và khẩn xin vô luận điều gì, 30. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe, tha thứ cho, và báo lại cho mỗi người tùy theo công việc họ, vì Chúa thông biết lòng của họ (thật chỉ một mình Chúa biết được lòng của con cái loài người); 31. để khiến chúng kính sợ Chúa, đi theo đường lối của Chúa trọn đời chúng sống ở trên đất mà Chúa đã ban cho tổ phụ chúng tôi.
32. Vả lại, về người ngoại bang là người chẳng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, nhưng vì danh lớn Chúa, vì cánh tay quyền năng giơ thẳng ra của Ngài, họ sẽ từ xứ xa đi đến hướng về đền này mà cầu nguyện, 33. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy đủ nghe, và làm theo mọi điều người ngoại bang ấy cầu xin Chúa; hầu cho muôn dân trên đất nhận biết danh Chúa, kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, và biết rằng cái đền này mà tôi đã xây cất, được gọi bằng danh Chúa.
34. Khi dân sự Chúa ra chiến tranh với kẻ thù nghịch mình, theo đường nào mà Chúa sẽ sai đi, nếu chúng cầu nguyện cùng Chúa, xây về hướng thành nầy mà Chúa đã chọn, và về đền nầy mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, 35. thì xin Chúa từ trên trời hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của chúng, và binh vực cho họ.
36. Nếu dân Y-sơ-ra-ên phạm tội với Chúa (vì chẳng có người nào mà không phạm tội), và Chúa nổi giận, phó chúng cho kẻ thù nghịch, và kẻ thù nghịch bắt họ làm phu tù dẫn đến xứ xa hay gần; 37. nếu trong xứ mà họ bị dẫn đến làm phu tù, họ suy nghĩ lại, ăn năn, và cầu khẩn Chúa, mà rằng: Chúng tôi có phạm tội, làm điều gian ác và cư xử cách dữ tợn, 38. nếu tại trong xứ mà kẻ thù nghịch đã dẫn họ đến làm phu tù, họ hết lòng hết ý trở lại cùng Chúa, cầu nguyện cùng Ngài hướng về xứ mà Chúa đã ban cho tổ phụ họ, về thành Chúa đã chọn, và về đền mà tôi đã xây cất cho danh Chúa, 39. thì xin Chúa từ trên trời, là nơi ngự của Chúa, hãy dủ nghe lời cầu nguyện nài xin của chúng, binh vực họ, và tha thứ tội mà dân sự của Chúa đã phạm cùng Ngài.
40. Vậy, Đức Chúa Trời tôi ôi! bây giờ cầu xin Chúa đoái thương và lắng tai nghe phàm lời nào cầu nguyện trong nơi này. 41. Nầy, Giê-hô-va Đức Chúa Trời ôi! xin hãy chổi dậy, để Chúa và hòm quyền năng Ngài được vào nơi an nghỉ Ngài! Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! nguyện những thầy tế lễ Chúa được mặc sự cứu rỗi, và các thánh đồ Chúa được mừng rỡ trong sự nhân từ Ngài! 42. Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời! xin chớ từ bỏ kẻ chịu xức dầu của Chúa; khá nhớ lại các sự nhân từ của Chúa đối với Đa-vít, là kẻ tôi tớ Ngài.
Bản Dịch 2011
Cung Hiến Ðền Thờ
1 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “CHÚA đã phán rằng, Ngài ngự giữa mây mù đen mịt, 2 và con thật được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.”
Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân
3 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 4 Ông nói, “Chúc tụng CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 5 ‘Từ ngày Ta đem dân Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn ai để làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta. 6 Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’
7 Lúc ấy Ða-vít cha tôi có ý xây một Ðền Thờ cho danh CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 8 nhưng CHÚA đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt, khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 9 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta đâu, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’
10 CHÚA đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên kế vị của Ða-vít cha tôi và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như CHÚA đã phán, và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 11 Ðây này tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước CHÚA đã lập với dân I-sơ-ra-ên.”
Sa-lô-môn Cầu Nguyện Cung Hiến Ðền Thờ
(1 Vua 6:22-51)
12 Bấy giờ ông đứng trước bàn thờ CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, và đưa hai tay lên trời. 13 Số là Sa-lô-môn đã làm một bục bằng đồng, chiều ngang hai mét rưỡi, chiều dọc hai mét rưỡi, và chiều cao bảy tấc rưỡi, và đặt bục đó ở giữa sân. Ông đứng trên bục ấy; rồi trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên ông quỳ xuống, đưa hai tay lên trời, 14 và cầu nguyện rằng:
“Lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay ở dưới đất thấp này. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16 Vậy bây giờ, lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17 Vì vậy, lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với Ða-vít tôi tớ Ngài.
18 Nhưng Ðức Chúa Trời có ở với người phàm trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài thay, huống chi Ðền Thờ con xây cất cho Ngài đây. 19 Lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài. 20 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ này, nơi Ngài phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 21 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.
22 Khi có ai phạm tội đối với người khác, và người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ này, 23 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.
24 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài và bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ này, 25 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho họ và cho tổ tiên họ.
26 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất, vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi này mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 27 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài, xin chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi, và xin ban mưa xuống xứ sở Ngài ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
28 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 29 nhưng có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ, đưa tay ra hướng về Ðền Thờ này mà cầu nguyện và nài xin, 30 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 31 hầu họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong đường lối Ngài trọn đời của họ, trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.
32 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và hướng về Ðền Thờ này mà cầu nguyện, 33 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi điều người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ này mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.
34 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi họ hướng về thành này, thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 35 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.
36 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem đi lưu đày biệt xứ, bất kể xa hay gần; 37 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày, họ biết tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, mà rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 38 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ, và xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài.
40 Bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của con, cầu xin Ngài luôn để mắt nhìn và để tai nghe những lời cầu nguyện dâng lên từ nơi này.
41 Vậy bây giờ, lạy CHÚA Hằng Hữu, xin trỗi dậy và ngự đến nơi nghỉ ngơi của Ngài,
Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài.
Lạy CHÚA Hằng Hữu, nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy ơn cứu rỗi,
Nguyện những người trung tín tin thờ Ngài được vui vẻ vì phước hạnh Ngài ban.
42 Lạy CHÚA Hằng Hữu, xin đừng loại bỏ người được xức dầu của Ngài,
Xin nhớ lại tình thương vô đối Ngài dành cho Ða-vít đầy tớ Ngài.”
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- I Các Vua
- II Các Vua
- I Sử Ký
- II Sử Ký
- II Sử Ký: Chương 5
- II Sử Ký: Chương 7
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành