Khác biệt giữa các bản “I Sử Ký: Chương 16”
(Update Ban Dich 2011) |
|||
| (Không hiển thị 15 phiên bản của cùng người dùng ở giữa) | |||
| Dòng 1: | Dòng 1: | ||
| + | ==Bản Dịch Việt Ngữ== | ||
| + | |||
| + | 1. Họ đem Rương của Đức Chúa Trời vào đặt giữa căn trại mà Đa-vít đã dựng lên. Họ cũng dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trước mặt Đức Chúa Trời. 2. Sau khi Đa-vít đã dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an, ông đã nhân danh Đức Giê-hô-va chúc phước cho dân chúng. 3. Sau đó, ông phát cho dân chúng, không phân biệt nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô. | ||
| + | |||
| + | 4. Ông đã bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ phục vụ trước Rương của Đức Giê-hô-va để cầu xin, để cảm tạ, và để tôn ngợi Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 5. A-sáp là lãnh đạo, kế đến là Xa-cha-ri, rồi đến Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-ê-đôm và Giê-i-ên. Họ sử dụng các nhạc khí như đàn hạc, đàn lia. A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. 6. Các Tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên cứ tiếp tục thổi kèn trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời. | ||
| + | |||
| + | 7. Trong ngày hôm đó, lần đầu tiên Đa-vít đã trao vào tay A-sáp và các anh em của ông một thánh thi để tôn ngợi Đức Giê-hô-va: | ||
| + | |||
| + | 8. Hãy tạ ơn Đức Giê-hô-va! Hãy cầu khẩn danh của Ngài! Hãy công bố giữa các dân những công việc của Ngài! 9. Hãy tôn ngợi Ngài bằng những thánh thi! Hãy thuật lại những công việc diệu kỳ của Ngài! 10. Hãy tôn vinh danh thánh của Ngài. Nguyện lòng của những người tìm kiếm Đức Giê-hô-va được vui mừng. 11. Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va và quyền năng của Ngài. Hãy luôn luôn tìm kiếm mặt Ngài. 12. Hãy ghi nhớ những công việc diệu kỳ của Ngài, tức là những việc kỳ diệu mà Ngài đã làm, cùng những phán quyết từ miệng của Ngài. | ||
| + | |||
| + | 13. Hỡi dòng dõi Y-sơ-ra-ên là đầy tớ Ngài! Hỡi con cháu Gia-cốp là những người Ngài đã chọn! 14. Ngài là Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chúng ta. Ngài cai trị toàn thế giới. 15. Hãy luôn luôn ghi nhớ giao ước của Ngài, tức là lời Ngài đã truyền cho hằng ngàn thế hệ, 16. mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham, và lời thề của Ngài với Y-sác, 17. đã được xác nhận làm quy luật cho Gia-cốp, và làm giao ước đời đời cho Y-sơ-ra-ên. 18. Ngài phán: "Ta sẽ ban cho các ngươi xứ Ca-na-an để làm sản nghiệp cho các ngươi," 19. vào lúc họ có rất ít người, thật vậy rất ít, và họ là những ngoại kiều tại đó. 20. Họ đã lưu lạc từ nước này sang nước khác, từ vương quốc này đến dân tộc kia. 21. Ngài không để ai áp bức họ. Ngài đã quở trách các vua vì cớ họ: 22. “Ðừng đụng đến những người được xức dầu của Ta. Không được làm hại những tiên tri của Ta.” | ||
| + | |||
| + | 23. Hỡi cả trái đất, hãy tôn ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài từ ngày này sang ngày khác. 24. Hãy công bố vinh quang của Ngài ở giữa các dân tộc, và những việc diệu kỳ của Ngài ở giữa các nước. 25. Bởi vì Đức Giê-hô-va thật vĩ đại, rất đáng được ca ngợi, Ngài đáng kính sợ hơn tất cả các thần, 26. và bởi vì tất cả các thần của các dân tộc đều là hình tượng, nhưng Đức Giê-hô-va đã tạo dựng nên các tầng trời. 27. Vinh quang và sự uy nghi ở trước mặt Ngài, quyền năng và sự tráng lệ ở trong nơi thánh của Ngài. | ||
| + | |||
| + | 28. Hỡi các dòng họ của muôn dân! Hãy quy về cho Đức Giê-hô-va. Hãy quy về cho Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng. 29. Hãy quy vinh quang về Đức Giê-hô-va xứng đáng với danh của Ngài. Hãy đem lễ vật dâng lên trước mặt Ngài. Hãy trang điểm bằng sự thánh khiết để thờ phượng Đức Giê-hô-va. 30. Hỡi cả trái đất, hãy run sợ trước mặt Ngài. Thế giới sẽ được thiết lập vững bền, không bao giờ rúng động. 31. Nguyện các từng trời vui mừng! Nguyện trái đất hân hoan! Nguyện người ta nói giữa các quốc gia rằng: “Đức Giê-hô-va trị vì!” 32. Biển cả và mọi vật ở trong đó hãy reo vang. Cánh đồng và mọi vật trong đó hãy vui mừng. 33. Tất cả những cây cối trong rừng hãy ca hát trước mặt Đức Giê-hô-va; bởi vì Ngài đến để phán xét thế gian. | ||
| + | |||
| + | 34. Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện, sự nhân từ Ngài còn đến đời đời. 35. Hãy nói: “Đức Chúa Trời, là Đấng Cứu Tinh của chúng con! Xin giải cứu chúng con. Xin tập họp chúng con lại với nhau. Xin giải cứu chúng con từ các dân, để chúng con cảm tạ danh thánh của Ngài và tôn vinh ca ngợi Ngài.” 36. Tôn ngợi Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, từ cõi đời đời cho đến đời đời! | ||
| + | |||
| + | Toàn dân đã nói: “Tôn ngợi Đức Giê-hô-va! A-men!" | ||
| + | |||
| + | 37. Vì vậy, ông đã đặt để A-sáp và những anh em của ông ấy trước Rương Giao Ước của Đức Giê-hô-va, để họ tiếp tục phục vụ mỗi ngày trước Rương theo quy định như sau: 38. Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám anh em của ông phục vụ tại đó. Ô-bết Ê-đôm, là con trai của Giê-đu-thun, và Hô-sa làm người canh giữ cổng. Tư tế Xa-đốc và những tư tế là anh em của ông để phục vụ trước Đền Tạm của Đức Giê-hô-va tại nơi cao ở Ghi-bê-ôn, 40. để họ thường xuyên dâng những tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va trên bàn thờ dâng của lễ thiêu vào mỗi sáng và mỗi chiều, theo như tất cả những gì đã được ghi chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va đã được truyền cho Y-sơ-ra-ên. 41. Cùng với họ còn có Hê-man, Giê-đu-thun và những người đã được chọn đích danh khác, để tạ ơn Đức Giê-hô-va bởi vì sự nhân từ của Ngài còn đến đời đời. 42. Thêm vào đó, Hê-man và Giê-đu-thun còn sử dụng kèn, khánh chiêng để tạo tiếng vang, và những nhạc cụ khác để ca tụng Đức Chúa Trời. Các con trai của Giê-đu-thun là những người canh giữ cổng. | ||
| + | |||
| + | 43. Sau đó, tất cả mọi người ra về. Mỗi người trở về nhà của mình. Đa-vít trở về nhà để chúc phước cho gia đình của mình. | ||
| + | |||
| + | |||
==Bản Dịch 1925== | ==Bản Dịch 1925== | ||
| Dòng 63: | Dòng 88: | ||
36. Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Từ đời đời cho đến đời đời! Cả dân sự đều đáp rằng: A-men! và ngợi khen Đức Giê-hô-va. | 36. Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Từ đời đời cho đến đời đời! Cả dân sự đều đáp rằng: A-men! và ngợi khen Đức Giê-hô-va. | ||
| − | 37. Vậy, Đa-vít đặt A-sáp và anh em người tại đó, trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, hầu cho mỗi ngày phục sự luôn luôn ở trước hòm, làm việc ngày nào theo ngày nấy. 38. Cũng đặt Ô-bết-Ê-đôm và anh em người làm kẻ giữ cửa, số được sáu mươi tám người, và Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng Hô-sa; 39. lại đặt thầy tế lễ cả Xa-đốc và anh em người, là những thầy tế lễ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại nơi cao trong Ga-ba-ôn, 40. đặng sớm mai và chiều hằng dâng những của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tại trên bàn thờ của lễ thiêu, tùy theo các điều chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, mà Ngài đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên; 41. với chúng có đặt Hê-man, Giê-đu-thun, và những người đã được chọn khác, gọi từng danh, đặng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài còn đến đời đời; 42. còn Hê-man và Giê-đu-thun cầm những kèn và chập chỏa để làm nó vang | + | 37. Vậy, Đa-vít đặt A-sáp và anh em người tại đó, trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, hầu cho mỗi ngày phục sự luôn luôn ở trước hòm, làm việc ngày nào theo ngày nấy. 38. Cũng đặt Ô-bết-Ê-đôm và anh em người làm kẻ giữ cửa, số được sáu mươi tám người, và Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng Hô-sa; 39. lại đặt thầy tế lễ cả Xa-đốc và anh em người, là những thầy tế lễ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại nơi cao trong Ga-ba-ôn, 40. đặng sớm mai và chiều hằng dâng những của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tại trên bàn thờ của lễ thiêu, tùy theo các điều chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, mà Ngài đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên; 41. với chúng có đặt Hê-man, Giê-đu-thun, và những người đã được chọn khác, gọi từng danh, đặng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài còn đến đời đời; 42. còn Hê-man và Giê-đu-thun cầm những kèn và chập chỏa để làm nó vang dậy lên, cùng các nhạc khí dùng về bài ca hát của Đức Chúa Trời; các con trai của Giê-đu-thun thì đứng tại nơi cửa. |
43. Cả dân sự đều đi, mỗi người trở về nhà mình; còn Đa-vít trở về đặng chúc phước cho nhà người. <br/> | 43. Cả dân sự đều đi, mỗi người trở về nhà mình; còn Đa-vít trở về đặng chúc phước cho nhà người. <br/> | ||
| + | |||
| + | :<html5media height="520" width="1280">https://thuvientinlanh.org/audio/Bible/read/V02\B13\V02B13C016.mp3</html5media> | ||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
'''Ðặt Rương Giao Ước vào Ðền Tạm''' | '''Ðặt Rương Giao Ước vào Ðền Tạm''' | ||
| − | 1 Vậy họ rước Rương của Ðức Chúa Trời và đặt Rương Thánh vào lều Ða-vít đã dựng cho Rương Thánh. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu và các lễ cầu an trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời. 2 Sau khi Ða-vít đã dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an, ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân. 3 Kế đó ông phát cho | + | 1 Vậy họ rước Rương của Ðức Chúa Trời và đặt Rương Thánh vào lều Ða-vít đã dựng cho Rương Thánh. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu và các lễ cầu an trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời. 2 Sau khi Ða-vít đã dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an, ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân. 3 Kế đó ông phát cho mọi người I-sơ-ra-ên, không phân biệt nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một phần thịt, và một cái bánh nho khô. |
4 Ông bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ hầu việc trước Rương của CHÚA để cầu xin, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 5 A-sáp làm trưởng; Xa-cha-ri-a làm phó; kế đến là Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thi-a, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên để họ sử dụng các hạc cầm và các đàn lia; A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. 6 Còn hai vị tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên có nhiệm vụ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời. | 4 Ông bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ hầu việc trước Rương của CHÚA để cầu xin, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 5 A-sáp làm trưởng; Xa-cha-ri-a làm phó; kế đến là Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thi-a, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên để họ sử dụng các hạc cầm và các đàn lia; A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. 6 Còn hai vị tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên có nhiệm vụ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời. | ||
| Dòng 100: | Dòng 127: | ||
Tức những việc diệu kỳ và những phán quyết Ngài đã phán. | Tức những việc diệu kỳ và những phán quyết Ngài đã phán. | ||
| − | 13 Hỡi dòng dõi của I-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, | + | 13 Hỡi dòng dõi của I-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, |
Hỡi con cháu của Gia-cốp, những người Ngài đã chọn. | Hỡi con cháu của Gia-cốp, những người Ngài đã chọn. | ||
| Dòng 126: | Dòng 153: | ||
Một nhóm thiểu số và là những kiều dân trong xứ. | Một nhóm thiểu số và là những kiều dân trong xứ. | ||
| − | 20 Họ đã đi lang thang từ nước | + | 20 Họ đã đi lang thang từ nước này sang nước khác, |
Từ vương quốc nọ đến vương quốc kia. | Từ vương quốc nọ đến vương quốc kia. | ||
| Dòng 208: | Dòng 235: | ||
'''Sự Thờ Phượng Thường Xuyên''' | '''Sự Thờ Phượng Thường Xuyên''' | ||
| − | 37 Ða-vít để A-sáp và bà con của ông ấy ở lại tại đó trước Rương Giao Ước của CHÚA, để họ phục vụ thường xuyên mỗi ngày trước Rương Thánh như đã định. 38 Ông cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người bà con của ông ấy ở lại đó. Ô-bết Ê-đôm con của Giê-đu-thun và Hô-sa đặc trách việc giữ cửa. 39 Ngoài ra ông cũng để Tư Tế Xa-đốc và bà con của ông ấy làm tư tế trước Ðền Tạm của CHÚA ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn, 40 để họ thường xuyên dâng các của lễ thiêu lên CHÚA trên bàn thờ dâng của lễ thiêu, mỗi sáng và mỗi chiều, theo như mọi điều đã ghi trong luật pháp CHÚA đã truyền cho I-sơ-ra-ên. 41 Cùng ở với họ có Hê-man, Giê-đu-thun, và những người khác đã được chọn và được nêu đích danh để lo việc tạ ơn CHÚA, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời. 42 Hê-man và Giê-đu-thun được trao cho các kèn, các khánh chiêng, và mọi thứ nhạc khí để họ lo việc tấu nhạc khi hát thánh ca. Các con của Giê-đu-thun được chỉ định túc trực nơi cổng chính. | + | 37 Ða-vít để A-sáp và bà con của ông ấy ở lại tại đó trước Rương Giao Ước của CHÚA, để họ phục vụ thường xuyên mỗi ngày trước Rương Thánh như đã định. 38 Ông cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người bà con của ông ấy ở lại đó. Ô-bết Ê-đôm con của Giê-đu-thun và Hô-sa đặc trách việc giữ cửa. 39 Ngoài ra ông cũng để Tư Tế Xa-đốc và bà con của ông ấy làm tư tế trước Ðền Tạm của CHÚA ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn, 40 để họ thường xuyên dâng các của lễ thiêu lên CHÚA trên bàn thờ dâng của lễ thiêu, mỗi sáng và mỗi chiều, theo như mọi điều đã ghi trong luật pháp CHÚA đã truyền cho I-sơ-ra-ên. 41 Cùng ở với họ có Hê-man, Giê-đu-thun, và những người khác đã được chọn và được nêu đích danh để lo việc tạ ơn CHÚA, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời. 42 Hê-man và Giê-đu-thun được trao cho các kèn, các khánh chiêng, và mọi thứ nhạc khí để họ lo việc tấu nhạc khi hát thánh ca thờ phượng Đức Chúa Trời. Các con của Giê-đu-thun được chỉ định túc trực nơi cổng chính. |
43 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên rời nơi ấy trở về nhà họ. Ða-vít cũng trở về nhà ông và chúc phước cho gia đình ông. | 43 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên rời nơi ấy trở về nhà họ. Ða-vít cũng trở về nhà ông và chúc phước cho gia đình ông. | ||
| Dòng 215: | Dòng 242: | ||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | ||
| − | + | :* [[Kinh Thánh]] - [[Bản Dịch 2011]] - Mục sư Đặng Ngọc Báu | |
| − | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành |
| − | + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành | |
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[I Các Vua]] | ||
| + | :* [[II Các Vua]] | ||
:* [[I Sử Ký]] | :* [[I Sử Ký]] | ||
| + | :* [[II Sử Ký]] | ||
| + | :* [[I Sử Ký: Chương 15]] | ||
| + | :* [[I Sử Ký: Chương 17]] | ||
| + | :* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | ||
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | :* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | ||
Bản hiện tại lúc 19:31, ngày 27 tháng 9 năm 2025
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Họ đem Rương của Đức Chúa Trời vào đặt giữa căn trại mà Đa-vít đã dựng lên. Họ cũng dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trước mặt Đức Chúa Trời. 2. Sau khi Đa-vít đã dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an, ông đã nhân danh Đức Giê-hô-va chúc phước cho dân chúng. 3. Sau đó, ông phát cho dân chúng, không phân biệt nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô.
4. Ông đã bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ phục vụ trước Rương của Đức Giê-hô-va để cầu xin, để cảm tạ, và để tôn ngợi Đức Giê-hô-va, là Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 5. A-sáp là lãnh đạo, kế đến là Xa-cha-ri, rồi đến Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-ê-đôm và Giê-i-ên. Họ sử dụng các nhạc khí như đàn hạc, đàn lia. A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. 6. Các Tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên cứ tiếp tục thổi kèn trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời.
7. Trong ngày hôm đó, lần đầu tiên Đa-vít đã trao vào tay A-sáp và các anh em của ông một thánh thi để tôn ngợi Đức Giê-hô-va:
8. Hãy tạ ơn Đức Giê-hô-va! Hãy cầu khẩn danh của Ngài! Hãy công bố giữa các dân những công việc của Ngài! 9. Hãy tôn ngợi Ngài bằng những thánh thi! Hãy thuật lại những công việc diệu kỳ của Ngài! 10. Hãy tôn vinh danh thánh của Ngài. Nguyện lòng của những người tìm kiếm Đức Giê-hô-va được vui mừng. 11. Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va và quyền năng của Ngài. Hãy luôn luôn tìm kiếm mặt Ngài. 12. Hãy ghi nhớ những công việc diệu kỳ của Ngài, tức là những việc kỳ diệu mà Ngài đã làm, cùng những phán quyết từ miệng của Ngài.
13. Hỡi dòng dõi Y-sơ-ra-ên là đầy tớ Ngài! Hỡi con cháu Gia-cốp là những người Ngài đã chọn! 14. Ngài là Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chúng ta. Ngài cai trị toàn thế giới. 15. Hãy luôn luôn ghi nhớ giao ước của Ngài, tức là lời Ngài đã truyền cho hằng ngàn thế hệ, 16. mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham, và lời thề của Ngài với Y-sác, 17. đã được xác nhận làm quy luật cho Gia-cốp, và làm giao ước đời đời cho Y-sơ-ra-ên. 18. Ngài phán: "Ta sẽ ban cho các ngươi xứ Ca-na-an để làm sản nghiệp cho các ngươi," 19. vào lúc họ có rất ít người, thật vậy rất ít, và họ là những ngoại kiều tại đó. 20. Họ đã lưu lạc từ nước này sang nước khác, từ vương quốc này đến dân tộc kia. 21. Ngài không để ai áp bức họ. Ngài đã quở trách các vua vì cớ họ: 22. “Ðừng đụng đến những người được xức dầu của Ta. Không được làm hại những tiên tri của Ta.”
23. Hỡi cả trái đất, hãy tôn ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài từ ngày này sang ngày khác. 24. Hãy công bố vinh quang của Ngài ở giữa các dân tộc, và những việc diệu kỳ của Ngài ở giữa các nước. 25. Bởi vì Đức Giê-hô-va thật vĩ đại, rất đáng được ca ngợi, Ngài đáng kính sợ hơn tất cả các thần, 26. và bởi vì tất cả các thần của các dân tộc đều là hình tượng, nhưng Đức Giê-hô-va đã tạo dựng nên các tầng trời. 27. Vinh quang và sự uy nghi ở trước mặt Ngài, quyền năng và sự tráng lệ ở trong nơi thánh của Ngài.
28. Hỡi các dòng họ của muôn dân! Hãy quy về cho Đức Giê-hô-va. Hãy quy về cho Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng. 29. Hãy quy vinh quang về Đức Giê-hô-va xứng đáng với danh của Ngài. Hãy đem lễ vật dâng lên trước mặt Ngài. Hãy trang điểm bằng sự thánh khiết để thờ phượng Đức Giê-hô-va. 30. Hỡi cả trái đất, hãy run sợ trước mặt Ngài. Thế giới sẽ được thiết lập vững bền, không bao giờ rúng động. 31. Nguyện các từng trời vui mừng! Nguyện trái đất hân hoan! Nguyện người ta nói giữa các quốc gia rằng: “Đức Giê-hô-va trị vì!” 32. Biển cả và mọi vật ở trong đó hãy reo vang. Cánh đồng và mọi vật trong đó hãy vui mừng. 33. Tất cả những cây cối trong rừng hãy ca hát trước mặt Đức Giê-hô-va; bởi vì Ngài đến để phán xét thế gian.
34. Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện, sự nhân từ Ngài còn đến đời đời. 35. Hãy nói: “Đức Chúa Trời, là Đấng Cứu Tinh của chúng con! Xin giải cứu chúng con. Xin tập họp chúng con lại với nhau. Xin giải cứu chúng con từ các dân, để chúng con cảm tạ danh thánh của Ngài và tôn vinh ca ngợi Ngài.” 36. Tôn ngợi Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, từ cõi đời đời cho đến đời đời!
Toàn dân đã nói: “Tôn ngợi Đức Giê-hô-va! A-men!"
37. Vì vậy, ông đã đặt để A-sáp và những anh em của ông ấy trước Rương Giao Ước của Đức Giê-hô-va, để họ tiếp tục phục vụ mỗi ngày trước Rương theo quy định như sau: 38. Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám anh em của ông phục vụ tại đó. Ô-bết Ê-đôm, là con trai của Giê-đu-thun, và Hô-sa làm người canh giữ cổng. Tư tế Xa-đốc và những tư tế là anh em của ông để phục vụ trước Đền Tạm của Đức Giê-hô-va tại nơi cao ở Ghi-bê-ôn, 40. để họ thường xuyên dâng những tế lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va trên bàn thờ dâng của lễ thiêu vào mỗi sáng và mỗi chiều, theo như tất cả những gì đã được ghi chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va đã được truyền cho Y-sơ-ra-ên. 41. Cùng với họ còn có Hê-man, Giê-đu-thun và những người đã được chọn đích danh khác, để tạ ơn Đức Giê-hô-va bởi vì sự nhân từ của Ngài còn đến đời đời. 42. Thêm vào đó, Hê-man và Giê-đu-thun còn sử dụng kèn, khánh chiêng để tạo tiếng vang, và những nhạc cụ khác để ca tụng Đức Chúa Trời. Các con trai của Giê-đu-thun là những người canh giữ cổng.
43. Sau đó, tất cả mọi người ra về. Mỗi người trở về nhà của mình. Đa-vít trở về nhà để chúc phước cho gia đình của mình.
Bản Dịch 1925
1. Chúng thỉnh hòm của Đức Chúa Trời về, để trong trại của Đa-vít đã dựng lên cho nó; đoạn dâng những của lễ thiêu và của lễ bình an tại trước mặt Đức Chúa Trời. 2. Khi Đa-vít đã dâng của lễ thiêu và của lễ bình an xong, bèn nhân danh Đức Giê-hô-va chúc phước cho dân sự; 3. đoạn phân phát cho hết thảy người Y-sơ-ra-ên, cả nam và nữ, mỗi người một ổ bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô.
4. Người lập mấy người Lê-vi hầu việc trước hòm của Đức Giê-hô-va, ngợi khen, cảm tạ, và ca tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên: 5. A-sáp làm chánh, Xa-cha-ri làm phó, rồi thì Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên, đều cầm nhạc khí, đàn cầm và đàn sắt; còn A-sáp nổi chập chỏa vang lên. 6. Bê-na-gia và thầy tế lễ Gia-ha-xi-ên đều hằng thổi kèn ở trước hòm giao ước của Đức Chúa Trời.
7. Trong ngày đó, Đa-vít trao nơi tay A-sáp và anh em người bài hát nầy, đặng ngợi khen Đức Giê-hô-va:
8. Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va cầu khẩn danh Ngài, Và đồn công việc Ngài ra giữa các dân tộc!
9. Hãy ca hát cho Ngài, hãy ngợi khen Ngài! Suy gẫm về các công việc mầu của Ngài.
10. Hãy lấy danh thánh Ngài làm vinh; Phàm ai tìm cầu Đức Giê-hô-va, khá vui lòng!
11. Phải tìm cầu Đức Giê-hô-va và sức mạnh Ngài, Phải tìm mặt Ngài luôn luôn.
12. Hỡi dòng dõi của Y-sơ-ra-ên, là đầy tớ Ngài, Hỡi con cháu của Gia-cốp, là kẻ Ngài chọn, 13. Hãy nhớ lại công việc mầu của Ngài đã làm, Những phép lạ Ngài, và lời xét đoán của miệng Ngài.
14. Ngài vốn là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta; Sự xét đoán Ngài làm ra khắp thế gian.
15. Khá nhớ đời đời sự giao ước Ngài, Và mạng lịnh Ngài đã định cho ngàn đời,
16. Tức giao ước, Ngài đã lập cùng Áp-ra-ham, Và lời thề Ngài đã thề cùng Y-sác;
17. Lại quyết định cho Gia-cốp làm điều lệ, Cho Y-sơ-ra-ên làm giao ước đời đời,
18. Rằng: Ta sẽ ban cho ngươi xứ Ca-na-an, Là phần cơ nghiệp ngươi.
19. Khi ấy các ngươi chỉ một số ít người, Hèn mọn, và làm khách trong xứ;
20. Trảy từ dân nầy qua dân kia, Từ nước nầy đến nước khác.
21. Ngài không cho ai hà hiếp chúng, Ngài trách phạt các vua vì cớ họ,
22. Mà rằng: Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu ta, Đừng làm hại cho các tiên tri ta.
23. Hỡi người khắp thế gian, khá hát ngợi khen Đức Giê-hô-va; Ngày ngày hãy tỏ ra sự chửng cứu của Ngài!
24. Trong các nước hãy thuật sự vinh hiển của Ngài; Tại muôn dân khá kể những công việc mầu của Ngài.
25. Vì Đức Giê-hô-va là lớn, rất đáng ngợi khen, Đáng kính sợ hơn các thần.
26. Vì các thần của những dân tộc vốn là hình tượng; Còn Đức Giê-hô-va dựng nên các từng trời.
27. Ở trước mặt Ngài có sự vinh hiển, oai nghi; Tại nơi Ngài ngự có quyền năng và sự vui vẻ,
28. Hỡi các dòng của muôn dân, Khá tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng;
29. Khá tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng danh Ngài, Đem lễ vật đến trước mặt Ngài; hãy mặc lấy trang sức thánh khiết mà thờ lạy Đức Giê-hô-va.
30. Hỡi khắp thiên hạ, khá run sợ trước mặt Ngài. Thế giới cũng được vững bền, không sao lay động.
31. Các từng trời hãy vui mừng, trái đất khá hỉ lạc; Còn trong các nước người ta đáng nói: Đức Giê-hô-va quản trị!
32. Biển và mọi vật ở trong phải dội tiếng lớn lên; Đồng nội và vạn vật trong nó đều khá vui vẻ!
33. Bấy giờ các cây cối trong rừng sẽ hát mừng rỡ trước mặt Đức Giê-hô-va; Vì Ngài đến đặng xét đoán thế gian.
34. Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là nhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời.
35. Hãy nói: Hỡi Đức Chúa Trời, Đấng chửng cứu chúng tôi! xin hãy cứu rỗi chúng tôi, Hiệp chúng tôi lại, và giải thoát khỏi các nước, Để chúng tôi cảm tạ danh thánh Chúa, Và nhờ sự ngợi khen Chúa mà lấy làm được vinh.
36. Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Từ đời đời cho đến đời đời! Cả dân sự đều đáp rằng: A-men! và ngợi khen Đức Giê-hô-va.
37. Vậy, Đa-vít đặt A-sáp và anh em người tại đó, trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, hầu cho mỗi ngày phục sự luôn luôn ở trước hòm, làm việc ngày nào theo ngày nấy. 38. Cũng đặt Ô-bết-Ê-đôm và anh em người làm kẻ giữ cửa, số được sáu mươi tám người, và Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng Hô-sa; 39. lại đặt thầy tế lễ cả Xa-đốc và anh em người, là những thầy tế lễ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại nơi cao trong Ga-ba-ôn, 40. đặng sớm mai và chiều hằng dâng những của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tại trên bàn thờ của lễ thiêu, tùy theo các điều chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, mà Ngài đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên; 41. với chúng có đặt Hê-man, Giê-đu-thun, và những người đã được chọn khác, gọi từng danh, đặng ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót Ngài còn đến đời đời; 42. còn Hê-man và Giê-đu-thun cầm những kèn và chập chỏa để làm nó vang dậy lên, cùng các nhạc khí dùng về bài ca hát của Đức Chúa Trời; các con trai của Giê-đu-thun thì đứng tại nơi cửa.
43. Cả dân sự đều đi, mỗi người trở về nhà mình; còn Đa-vít trở về đặng chúc phước cho nhà người.
Bản Dịch 2011
Ðặt Rương Giao Ước vào Ðền Tạm
1 Vậy họ rước Rương của Ðức Chúa Trời và đặt Rương Thánh vào lều Ða-vít đã dựng cho Rương Thánh. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu và các lễ cầu an trước thánh nhan của Ðức Chúa Trời. 2 Sau khi Ða-vít đã dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an, ông nhân danh CHÚA chúc phước cho dân. 3 Kế đó ông phát cho mọi người I-sơ-ra-ên, không phân biệt nam hay nữ, mỗi người một ổ bánh, một phần thịt, và một cái bánh nho khô.
4 Ông bổ nhiệm một số người Lê-vi vào chức vụ hầu việc trước Rương của CHÚA để cầu xin, cảm tạ, và ca ngợi CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 5 A-sáp làm trưởng; Xa-cha-ri-a làm phó; kế đến là Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Mát-ti-thi-a, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết Ê-đôm, và Giê-i-ên để họ sử dụng các hạc cầm và các đàn lia; A-sáp là người sử dụng khánh chiêng. 6 Còn hai vị tư tế Bê-na-gia và Gia-ha-xi-ên có nhiệm vụ thổi kèn thường xuyên trước Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời.
Bài Ca Cảm Tạ của Ða-vít
(Thi 105:1-15; 96:1-13; 106:47-48)
7 Ngày hôm đó lần đầu tiên Ða-vít đưa cho A-sáp và bà con của ông ấy những bài thánh thi để hát lên cảm tạ CHÚA:
8 Hãy cảm tạ CHÚA, hãy cầu khẩn danh Ngài;
Hãy rao truyền cho các dân biết các công việc Ngài.
9 Hãy ca ngợi Ngài, hãy ca hát chúc tụng Ngài;
Hãy kể ra tất cả những việc lạ lùng của Ngài.
10 Vinh hiển thay cho người được ở trong danh thánh Ngài;
Nguyện lòng những người tìm kiếm CHÚA được vui mừng.
11 Hãy tìm kiếm CHÚA và tìm kiếm quyền năng Ngài;
Hãy tìm kiếm mặt Ngài luôn luôn.
12 Hãy nhớ mãi những việc lạ lùng Ngài làm,
Tức những việc diệu kỳ và những phán quyết Ngài đã phán.
13 Hỡi dòng dõi của I-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài,
Hỡi con cháu của Gia-cốp, những người Ngài đã chọn.
14 Ngài là CHÚA, Ðức Chúa Trời chúng ta;
Các phán quyết của Ngài là định luật cho cả địa cầu.
15 Ngài ghi nhớ giao ước của Ngài mãi mãi,
Lời Ngài đã truyền có hiệu lực cho ngàn thế hệ về sau,
16 Ấy là giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham,
Và lời thề Ngài đã thề cùng I-sác.
17 Sau đó Ngài đã xác nhận với Gia-cốp như một đạo luật,
Với I-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời,
18 Rằng, “Ta sẽ ban xứ Ca-na-an cho các ngươi để làm sản nghiệp,”
19 Trong khi họ chỉ là một số ít người,
Một nhóm thiểu số và là những kiều dân trong xứ.
20 Họ đã đi lang thang từ nước này sang nước khác,
Từ vương quốc nọ đến vương quốc kia.
21 Nhưng Ngài đã không cho phép ai hà hiếp họ;
Vì cớ họ, Ngài đã quở trách các vua,
22 “Ðừng đụng đến những người được xức dầu của Ta;
Chớ làm hại các tiên tri của Ta.”
23 Hỡi cả thế giới, hãy ca ngợi CHÚA;
Hãy rao truyền ơn cứu rỗi của Ngài từ ngày nọ sang ngày kia.
24 Hãy công bố vinh hiển của Ngài giữa các quốc gia,
Hãy thuật lại những việc lạ lùng của Ngài cho mọi dân tộc.
25 Vì CHÚA thật vĩ đại thay!
Chỉ Ngài là Ðấng đáng được ca tụng.
Ngài là Ðấng đáng kính sợ hơn tất cả các thần.
26 Vì tất cả các thần của các dân chỉ là hình tượng vô tri;
Còn CHÚA là Ðấng đã dựng nên các từng trời.
27 Huy hoàng và uy nghi ở trước mặt Ngài,
Quyền năng và đẹp đẽ ở trong nơi thánh của Ngài.
28 Hãy quy về cho CHÚA, hỡi các dòng họ của muôn dân,
Hãy quy về cho CHÚA vinh hiển và quyền năng.
29 Hãy quy về cho CHÚA vinh hiển xứng đáng với danh Ngài;
Hãy đem một của lễ đến trước thánh nhan Ngài.
Hãy tôn thờ CHÚA trong nơi thánh tráng lệ của Ngài;
30 Hỡi cả thế giới, khá run sợ trước mặt Ngài.
Ðịa cầu đã được lập vững; nó sẽ không bị chuyển dời.
31 Nguyện các từng trời vui mừng, nguyện trái đất vui vẻ;
Nguyện người ta nói giữa các quốc gia, “CHÚA trị vì!”
32 Nguyện đại dương và mọi vật trong nó gầm vang;
Nguyện đồng xanh và mọi vật trong nó mừng rỡ;
33 Bấy giờ mọi cây rừng sẽ hát ca vui vẻ,
Ở trước mặt CHÚA, vì Ngài sắp đến để phán xét thế gian.
34 Hãy cảm tạ CHÚA, vì Ngài rất tốt,
Vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.
35 Xin mọi người hãy nói, “Lạy CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng con,
Xin giải cứu chúng con,
Xin đem chúng con từ giữa các dân trở về,
Ðể chúng con cảm tạ danh thánh của Ngài,
Và tôn vinh ca ngợi Ngài.
36 Chúc tụng CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên,
Từ đời đời cho đến đời đời.”
Xin mọi người hãy nói, “A-men!” và hãy ca ngợi CHÚA!
Sự Thờ Phượng Thường Xuyên
37 Ða-vít để A-sáp và bà con của ông ấy ở lại tại đó trước Rương Giao Ước của CHÚA, để họ phục vụ thường xuyên mỗi ngày trước Rương Thánh như đã định. 38 Ông cũng để Ô-bết Ê-đôm và sáu mươi tám người bà con của ông ấy ở lại đó. Ô-bết Ê-đôm con của Giê-đu-thun và Hô-sa đặc trách việc giữ cửa. 39 Ngoài ra ông cũng để Tư Tế Xa-đốc và bà con của ông ấy làm tư tế trước Ðền Tạm của CHÚA ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn, 40 để họ thường xuyên dâng các của lễ thiêu lên CHÚA trên bàn thờ dâng của lễ thiêu, mỗi sáng và mỗi chiều, theo như mọi điều đã ghi trong luật pháp CHÚA đã truyền cho I-sơ-ra-ên. 41 Cùng ở với họ có Hê-man, Giê-đu-thun, và những người khác đã được chọn và được nêu đích danh để lo việc tạ ơn CHÚA, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời. 42 Hê-man và Giê-đu-thun được trao cho các kèn, các khánh chiêng, và mọi thứ nhạc khí để họ lo việc tấu nhạc khi hát thánh ca thờ phượng Đức Chúa Trời. Các con của Giê-đu-thun được chỉ định túc trực nơi cổng chính.
43 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên rời nơi ấy trở về nhà họ. Ða-vít cũng trở về nhà ông và chúc phước cho gia đình ông.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- I Các Vua
- II Các Vua
- I Sử Ký
- II Sử Ký
- I Sử Ký: Chương 15
- I Sử Ký: Chương 17
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành