Khác biệt giữa các bản “II Sử Ký: Chương 34”
(Bản Dịch 1926 to Bản Dịch 1925) |
|||
| (Không hiển thị 17 phiên bản của cùng người dùng ở giữa) | |||
| Dòng 1: | Dòng 1: | ||
| + | ==Bản Dịch Việt Ngữ== | ||
| + | |||
| + | 1. Giô-si-a được tám tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2. Ông làm điều đúng trong mắt của Đức Giê-hô-va, và đã đi theo đường lối của Đa-vít, tổ phụ của ông, không quay qua bên phải hoặc bên trái. | ||
| + | |||
| + | 3. Vào năm thứ tám trong đời trị vì của mình, khi còn trẻ tuổi, ông đã bắt đầu tìm kiếm Đức Chúa Trời của Đa-vít, là tổ phụ của mình. Vào năm thứ mười hai, ông đã bắt đầu loại bỏ khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem những nơi cao, những trụ thờ A-sê-ra, những tượng chạm và những tượng đúc. 4. Trước sự hiện diện của ông, người ta đã đập nát những bàn thờ của Ba-anh. Ông đã triệt hạ những bàn thờ xông hương trên những nơi cao. Ông cho đập ra từng mảnh những trụ thờ A-sê-ra, những tượng chạm và những tượng đúc, nghiền chúng ra thành bụi, rồi đem rắc trên mộ của những kẻ đã cúng tế chúng. 5. Ông đã đốt xương cốt của các thầy cúng trên những bàn thờ của chúng. Ông đã thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem như vậy. 6. Tại các thành trực thuộc Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, cho đến tận Nép-ta-li và những nơi hiểm trở chung quanh, 7. ông đã phá hủy những bàn thờ, những trụ thờ A-sê-ra và những hình tượng, rồi nghiền nát chúng thành tro bụi. Ông đã đập tan tất cả những bàn thờ dâng hương trên khắp lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên. Sau đó, ông trở về Giê-ru-sa-lem. | ||
| + | |||
| + | 8. Vào năm thứ mười tám trong đời trị vì của ông, sau khi đã dọn sạch xứ sở và đền thờ, ông đã sai Sa-phan - con trai của A-xa-lia, Ma-a-xê-gia - tổng trấn của kinh thành, và Giô-a - con trai của Giô-a-cha, là quan ngự sử, lo việc tu sửa Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của ông. 9. Họ đã đến trao số tiền để tu bổ Đền Thờ của Đức Chúa Trời cho Thượng tế Hinh-kia. Đây là số tiền mà những người Lê-vi giữ cổng đã thâu nơi người Ma-na-se, Ép-ra-im, toàn thể những người còn lại của Y-sơ-ra-ên, và tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min, cùng dân cư Giê-ru-sa-lem. 10. Họ đã trao số tiền đó vào tay những người có trách nhiệm quản trị Ðền Thờ của Đức Giê-hô-va. Những người nầy đã trao lại cho những người thợ để tu bổ và sửa sang Ðền Thờ. 11. Họ đã trao số tiền đó cho các thợ mộc và thợ nề để mua đá tảng được đẽo sẵn, và gỗ để làm sườn nhà và đà ngang cho các tòa nhà mà các vua Giu-đa đã để cho hư hỏng. 12. Những thợ đã làm việc rất tận tâm cùng với những viên quản đốc: Gia-hát và Ô-ba-đi-a - là những người Lê-vi thuộc dòng dõi của Mê-ra-ri; Xa-cha-ria và Mê-shu-lam - thuộc dòng dõi của Kê-hát; và những người Lê-vi khác - tất cả là những nhạc sĩ tài ba. 13. Họ cũng coi sóc những phu khuân vác và chỉ huy mọi công nhân làm đủ mọi công việc. Trong số những người Lê-vi, có người làm thư ký, viên chức, và người gác cổng. | ||
| + | |||
| + | 14. Trong khi người ta đem số tiền đã dâng vào Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, Tư tế Hinh-kia cho biết ông đã tìm được cuốn sách Luật Pháp của Đức Giê-hô-va được ban cho Môi-se. 15. Hinh-kia nói với Thư ký Sa-phan: “Tôi đã tìm được cuốn sách luật pháp trong Đền Thờ của Đức Giê-hô-va.” Rồi Hinh-kia trao sách đó cho Sa-phan. | ||
| + | |||
| + | 16. Sa-phan đã đem cuốn sách trình cho vua, rồi thuật lại cho vua rằng: “Tất cả những công việc mà hoàng thượng đã giao cho các tôi tớ của ngài, họ đang thực hiện. 17. Họ đã lấy số tiền đã nhận được tại Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, rồi trao vào tay của các quản đốc và vào tay của những người thợ.” | ||
| + | |||
| + | 18. Sau đó, Thư ký Sa-phan đã tâu với vua: “Tư tế Hinh-kia đã trao cho tôi một cuốn sách.” Rồi Sa-phan đọc sách đó trước mặt vua. | ||
| + | |||
| + | 19. Sau khi vua nghe những lời ghi được trong sách Luật Pháp, ông đã xé trang phục của mình. 20. Vua đã truyền cho Hinh-kia, A-hi-cam - con trai của Sa-phan, Áp-đôn - con trai của Mi-ca, Thư ký Sa-phan, và quan cận thần của vua là A-sa-gia: 21. “Hãy vì ta và vì những người còn sót lại của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa mà đi cầu hỏi Đức Giê-hô-va về những lời trong sách đã tìm được. Bởi vì cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va đang giáng trên chúng ta rất lớn, vì các tổ phụ của chúng ta đã không tuân giữ những lời phán của Đức Giê-hô-va, và đã không làm theo những điều được ghi chép trong sách nầy.” | ||
| + | |||
| + | 22. Sau đó, Hinh-kia và những người vua đã chỉ định, đến gặp nữ Tiên tri Hun-đa, là vợ của Sa-lum - người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu của Hát-ra. Bà cư trú tại quận Hai của Giê-ru-sa-lem. Họ đã hỏi bà về điều đó. | ||
| + | |||
| + | 23. Sau đó, bà nói với họ: “Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: Hãy nói với người đã sai các ông đến gặp tôi rằng 24. Đức Giê-hô-va đã phán: ‘Nầy, Ta sẽ khiến tai họa giáng trên nơi nầy và trên những cư dân của nó, theo như tất cả những lời nguyền rủa đã được chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua của Giu-đa. 25. Bởi vì chúng đã lìa bỏ Ta mà dâng hương cho các thần khác. Chúng đã chọc giận Ta bằng mọi thứ do tay của chúng làm ra, cho nên cơn thịnh nộ của Ta sẽ đổ xuống nơi nầy, và sẽ không ngớt.’ 26. Về phần vua của Giu-đa, là người đã sai các ngươi cầu hỏi Đức Giê-hô-va, các ngươi hãy nói với người rằng đây là lời của Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán về những gì mà người đã nghe: 27. ‘Bởi vì ngươi đã mềm lòng, hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán nghịch lại nơi nầy và những cư dân tại đây. Ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, xé trang phục của mình và khóc lóc trước mặt Ta, cho nên Ta đã nghe ngươi.’ Đức Giê-hô-va phán như vậy. 28. ‘Nầy, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ phụ của ngươi. Ngươi sẽ được chôn cất bình an và mắt ngươi sẽ không thấy tất cả những tai họa mà Ta sẽ giáng xuống nơi nầy và những cư dân tại đây.’” Sau đó, họ đã đem những lời nầy trình lại cho vua. | ||
| + | |||
| + | 29. Sau đó, vua đã triệu tập tất cả các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 30. Vua đã đi lên Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, cùng với tất cả những người Giu-đa và cư dân của Giê-ru-sa-lem, các tư tế, những người Lê-vi, và toàn dân từ nhỏ cho đến lớn. Vua đã đọc vào tai của họ tất cả những lời đã được chép trong sách giao ước đã được tìm thấy trong Đền Thờ của Đức Giê-hô-va. | ||
| + | |||
| + | 31. Vua đã đứng tại chỗ của mình, lập một giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa nguyện sẽ bước đi theo Đức Giê-hô-va, vâng giữ những điều răn, những mạng lịnh, và những luật lệ của Ngài với cả tấm lòng và với cả linh hồn của mình, và sẽ làm theo mọi lời của giao ước đã được chép trong sách nầy. 32. Ông đã truyền cho tất cả cư dân tại Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min đang hiện diện đứng lên để cam kết. Vì vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đã thực hiện theo giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. | ||
| + | |||
| + | 33. Giô-si-a đã loại bỏ tất cả những điều kinh tởm khỏi đất nước Y-sơ-ra-ên và làm cho mọi người đang sống trong nước Y-sơ-ra-ên phải thờ phượng và phụng sự Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời của ông, họ đã không lìa bỏ việc đi theo Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. | ||
| + | |||
==Bản Dịch 1925== | ==Bản Dịch 1925== | ||
| + | |||
1. Giô-si-a được tám tuổi khi người lên ngôi làm vua, và cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2. Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, và đi theo con đường của Đa-vít, tổ phụ người, không xây về bên hữu hay là bên tả. | 1. Giô-si-a được tám tuổi khi người lên ngôi làm vua, và cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2. Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, và đi theo con đường của Đa-vít, tổ phụ người, không xây về bên hữu hay là bên tả. | ||
| Dòng 11: | Dòng 38: | ||
29. Vua bèn sai người nhóm các trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 30. Đoạn, vua đi lên đền Đức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, đều đi theo người; người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước đã tìm được trong đền của Đức Giê-hô-va, 31. Vua đứng tại chỗ mình, lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa đi theo Đức Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, đặng làm trọn lời giao ước đã chép trong sách ấy. 32. Người cũng khiến những người ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min ưng theo giao ước ấy. Vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đều làm theo giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. 33. Giô-si-a cất hết thảy sự gớm ghiếc khỏi các xứ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, và buộc hết thảy những người ở xứ Y-sơ-ra-ên phải phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời Giô-si-a, chúng hằng theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, chẳng lìa bỏ Ngài. <br/> | 29. Vua bèn sai người nhóm các trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 30. Đoạn, vua đi lên đền Đức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, đều đi theo người; người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước đã tìm được trong đền của Đức Giê-hô-va, 31. Vua đứng tại chỗ mình, lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa đi theo Đức Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, đặng làm trọn lời giao ước đã chép trong sách ấy. 32. Người cũng khiến những người ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min ưng theo giao ước ấy. Vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đều làm theo giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. 33. Giô-si-a cất hết thảy sự gớm ghiếc khỏi các xứ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, và buộc hết thảy những người ở xứ Y-sơ-ra-ên phải phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời Giô-si-a, chúng hằng theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, chẳng lìa bỏ Ngài. <br/> | ||
| + | |||
| + | :<html5media height="520" width="1280">https://thuvientinlanh.org/audio/Bible/read/V02\B14\V02B14C034.mp3</html5media> | ||
==Bản Dịch 2011== | ==Bản Dịch 2011== | ||
| − | '''Triều Ðại của Giô-si-a''' | + | '''Triều Ðại của Giô-si-a''' |
| + | |||
| + | (2 Vua 22:1-2) | ||
| + | |||
| + | 1 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Ông làm điều tốt trước mặt CHÚA và bước đi trong các đường lối của Ða-vít tổ tiên ông, không quay qua bên phải hoặc bên trái. | ||
| + | |||
| + | 3 Năm thứ tám triều đại của ông, dù lúc đó ông chỉ là một thiếu niên, ông bắt đầu tìm kiếm Ðức Chúa Trời của Ða-vít tổ tiên ông. Ðến năm thứ mười hai ông bắt đầu làm sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem các tế đàn trên những nơi cao, các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc của các tà thần. 4 Dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, người ta đập nát các bàn thờ của Thần Ba-anh. Ông hủy phá các bàn thờ dâng hương trên các nơi đó, và ông đập ra thành mảnh vụn các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc. Ông nghiền chúng ra thành bụi và đem rắc trên mộ của những kẻ đã dâng các thú vật hiến tế cho chúng. 5 Ông thiêu xương các tư tế của các thần ấy trên các bàn thờ chúng đã dùng để dâng các thú vật hiến tế cho thần tượng. Vậy ông tẩy sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sự thờ lạy tà thần. 6 Sau đó ông đến các thành trong lãnh thổ của Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, và tận miền Náp-ta-li, cùng những nơi đổ nát hoang tàn chung quanh chúng và cũng làm như vậy. 7 Ông đập đổ tan tành các bàn thờ thần tượng và các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông nghiền nát các hình tượng ra thành bụi và phá hủy tất cả các bàn thờ dâng hương cho các thần tượng trong khắp nước I-sơ-ra-ên; sau đó ông trở về Giê-ru-sa-lem. | ||
| + | |||
| + | '''Công Trình Tu Bổ Ðền Thờ''' | ||
| + | |||
| + | (2 Vua 22:3-7) | ||
| + | |||
| + | 8 Vào năm thứ mười tám của triều đại ông, sau khi đã làm sạch khỏi xứ và Ðền Thờ sự thờ lạy tà thần, ông sai Sa-phan con của A-xa-li-a, Ma-a-sê-gia thị trưởng của kinh thành, và Giô-a con của Giô-a-ha quan ký lục lo việc sửa sang Ðền Thờ CHÚA, Ðức Chúa Trời của ông. 9 Họ đến gặp Thượng Tế Hinh-ki-a để trao số tiền dân đã đem dâng ở Nhà Ðức Chúa Trời mà những người Lê-vi chịu trách nhiệm giữ cửa đã nhận được do dân từ các chi tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, những người còn sót lại của I-sơ-ra-ên, toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min, và dân cư Giê-ru-sa-lem đem đến dâng. 10 Họ trao số tiền đó tận tay những người có uy tín trông coi việc sửa sang Ðền Thờ CHÚA. Những người đó dùng tiền ấy trả công cho những thợ sửa chữa và chỉnh trang Ðền Thờ. 11 Họ trao số tiền đó cho các thợ mộc và thợ nề để mua đá tảng đẽo sẵn, gỗ để làm sườn nhà và đà ngang cho các tòa nhà của Ðền Thờ mà các vua Giu-đa trước đã bỏ bê khiến bị suy sụp. 12 Những thợ đó đã làm việc rất tận tâm dưới sự điều động của Gia-hát và Ô-ba-đi-a, hai người Lê-vi dòng dõi của Mê-ra-ri, cùng với sự giám thị của Xa-cha-ri-a và Mê-su-lam con cháu của Kê-hát. Những người Lê-vi khác, tất cả vốn là những nhạc sĩ tài ba, 13 được lập làm quản đốc những người khuân vác và làm giám thị các nhân công trong mọi công tác tái thiết. Một số người Lê-vi khác nữa làm thư ký, quản lý, và người giữ cửa. | ||
| + | |||
| + | '''Tìm Ðược Sách Luật Pháp''' | ||
| + | |||
| + | (2 Vua 22:8-13) | ||
| + | |||
| + | 14 Trong khi họ lấy tiền dân chúng đã dâng ở Ðền Thờ CHÚA ra đếm để trao cho ông, Tư Tế Hinh-ki-a cho họ biết ông đã tìm được cuộn sách Luật Pháp mà CHÚA đã ban cho dân qua Môi-se. 15 Hinh-ki-a nói với Quan Bí Thư Sa-phan, “Tôi đã tìm được cuộn sách Luật Pháp trong Ðền Thờ CHÚA.” Kế đó Hinh-ki-a trao cuộn sách ấy cho Sa-phan. 16 Sa-phan mang cuộn sách ấy đến cho vua và báo cáo, “Mọi việc hoàng thượng giao cho các tôi tớ ngài, họ đều thi hành nghiêm túc. 17 Họ đã lấy hết số tiền đã nhận được ở Ðền Thờ CHÚA và trao tận tay các giám thị và các nhân công.” 18 Kế đó Quan Bí Thư Sa-phan tâu với vua, “Tư Tế Hinh-ki-a có trao cho hạ thần một cuộn sách.” Rồi Sa-phan đọc sách ấy cho vua nghe. 19 Sau khi vua nghe những lời ghi trong sách Luật Pháp, vua xé rách y phục của ông. 20 Vua truyền lịnh cho Hinh-ki-a, A-hi-cam con của Sa-phan, Áp-đôn con của Mi-chê, Quan Bí Thư Sa-phan, và A-sa-gia mưu sĩ của vua rằng, 21 “Các ngươi hãy đi cầu hỏi ý CHÚA cho ta và cho những người còn sót lại trong I-sơ-ra-ên và Giu-đa về những lời đã chép trong cuộn sách tìm được ấy, vì cơn thịnh nộ của CHÚA sẽ đổ xuống trên chúng ta thật lớn thay, vì cha ông chúng ta đã không vâng giữ những lời của CHÚA mà làm theo mọi điều đã chép trong sách ấy.” | ||
| + | |||
| + | '''Tham Vấn Nữ Tiên Tri Hun-đa''' | ||
| + | |||
| + | (2 Vua 22:14-20) | ||
| + | |||
| + | 22 Vậy Hinh-ki-a và những người vua sai đi với ông đến gặp Nữ Tiên Tri Hun-đa. Bà là vợ của Sanh-lum con của Tô-khát cháu của Hạc-ra, người giữ các áo lễ của Ðền Thờ. Bà ấy đang ở Quận Nhì của Giê-ru-sa-lem. 23 Bà nói với họ, “CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này: Hãy nói với người sai các ông đến gặp tôi: 24 CHÚA phán thế này: ‘Này, Ta sẽ đem tai họa giáng xuống nơi này và trên dân cư ở đây, để làm ứng nghiệm mọi lời nguyền rủa đã chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. 25 Bởi vì chúng đã quên Ta mà dâng hương cho các thần khác. Chúng đã dùng mọi tác phẩm do tay chúng làm ra chọc giận Ta; vì thế cơn giận của Ta trút ra ở nơi này, và nó sẽ không nguôi đâu.’ 26 Còn về vua Giu-đa, người đã sai các ông đi cầu hỏi CHÚA, đây là những gì các ông hãy nói với người ấy: CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này: ‘Về những lời ngươi đã nghe: 27 Vì lòng ngươi mềm mại, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán về nơi này và dân cư ở đây, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, ngươi đã xé rách y phục của ngươi và khóc trước mặt Ta,’ CHÚA phán, 28 ‘Này, Ta sẽ đem ngươi về với tổ tiên ngươi, và ngươi sẽ được chôn cất bình an, mắt ngươi sẽ không phải nhìn thấy những tai họa Ta sẽ giáng xuống nơi này và trên dân cư ở đây.’” Vậy họ trở về thuật lại cho vua sứ điệp họ đã nhận được. | ||
| + | |||
| + | '''Tái Lập Giao Ước''' | ||
| + | |||
| + | (2 Vua 23:1-20) | ||
| + | |||
| + | 29 Bấy giờ vua sai các sứ giả đi mời tất cả các vị trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến. 30 Kế đó vua với toàn dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem đi lên Ðền Thờ CHÚA, với các tư tế và những người Lê-vi, tức mọi người, cả lớn lẫn nhỏ. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong Sách Giao Ước đã tìm được trong Ðền Thờ CHÚA. 31 Sau đó vua đứng tại chỗ của mình và lập một giao ước trước mặt CHÚA, hứa nguyện sẽ bước đi theo CHÚA, vâng giữ các điều răn, các mạng lịnh, và các luật lệ của Ngài một cách hết lòng và hết linh hồn mình, và sẽ làm theo mọi lời của giao ước đã ghi trong sách. 32 Ông yêu cầu mọi người sống ở Giê-ru-sa-lem và chi tộc Bên-gia-min tuyên thệ sẽ làm theo như thế. Vậy mọi người đang ở Giê-ru-sa-lem lúc đó đều hứa nguyện sẽ vâng giữ giao ước của Ðức Chúa Trời, thần của tổ tiên họ. | ||
| + | |||
| + | 33 Giô-si-a dẹp bỏ mọi thần tượng gớm ghiếc ra khỏi toàn thể lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên. Ông yêu cầu mọi người sống trong lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên lúc bấy giờ chỉ thờ phượng một mình CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ, mà thôi. Suốt những ngày của đời ông, họ không lìa bỏ CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, nhưng luôn tin thờ Ngài. | ||
| + | |||
==Tài Liệu== | ==Tài Liệu== | ||
| + | |||
:* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại | ||
| − | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu | + | :* [[Kinh Thánh]] - [[Bản Dịch 2011]] - Mục sư Đặng Ngọc Báu |
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[Kinh Thánh]] - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành | ||
| + | :* [[I Các Vua]] | ||
| + | :* [[II Các Vua]] | ||
| + | :* [[I Sử Ký]] | ||
:* [[II Sử Ký]] | :* [[II Sử Ký]] | ||
| + | :* [[II Sử Ký: Chương 33]] | ||
| + | :* [[II Sử Ký: Chương 35]] | ||
:* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | :* [[Bách Khoa Từ Điển Tin Lành]] | ||
Bản hiện tại lúc 21:39, ngày 31 tháng 10 năm 2025
Bản Dịch Việt Ngữ
1. Giô-si-a được tám tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2. Ông làm điều đúng trong mắt của Đức Giê-hô-va, và đã đi theo đường lối của Đa-vít, tổ phụ của ông, không quay qua bên phải hoặc bên trái.
3. Vào năm thứ tám trong đời trị vì của mình, khi còn trẻ tuổi, ông đã bắt đầu tìm kiếm Đức Chúa Trời của Đa-vít, là tổ phụ của mình. Vào năm thứ mười hai, ông đã bắt đầu loại bỏ khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem những nơi cao, những trụ thờ A-sê-ra, những tượng chạm và những tượng đúc. 4. Trước sự hiện diện của ông, người ta đã đập nát những bàn thờ của Ba-anh. Ông đã triệt hạ những bàn thờ xông hương trên những nơi cao. Ông cho đập ra từng mảnh những trụ thờ A-sê-ra, những tượng chạm và những tượng đúc, nghiền chúng ra thành bụi, rồi đem rắc trên mộ của những kẻ đã cúng tế chúng. 5. Ông đã đốt xương cốt của các thầy cúng trên những bàn thờ của chúng. Ông đã thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem như vậy. 6. Tại các thành trực thuộc Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, cho đến tận Nép-ta-li và những nơi hiểm trở chung quanh, 7. ông đã phá hủy những bàn thờ, những trụ thờ A-sê-ra và những hình tượng, rồi nghiền nát chúng thành tro bụi. Ông đã đập tan tất cả những bàn thờ dâng hương trên khắp lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên. Sau đó, ông trở về Giê-ru-sa-lem.
8. Vào năm thứ mười tám trong đời trị vì của ông, sau khi đã dọn sạch xứ sở và đền thờ, ông đã sai Sa-phan - con trai của A-xa-lia, Ma-a-xê-gia - tổng trấn của kinh thành, và Giô-a - con trai của Giô-a-cha, là quan ngự sử, lo việc tu sửa Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của ông. 9. Họ đã đến trao số tiền để tu bổ Đền Thờ của Đức Chúa Trời cho Thượng tế Hinh-kia. Đây là số tiền mà những người Lê-vi giữ cổng đã thâu nơi người Ma-na-se, Ép-ra-im, toàn thể những người còn lại của Y-sơ-ra-ên, và tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min, cùng dân cư Giê-ru-sa-lem. 10. Họ đã trao số tiền đó vào tay những người có trách nhiệm quản trị Ðền Thờ của Đức Giê-hô-va. Những người nầy đã trao lại cho những người thợ để tu bổ và sửa sang Ðền Thờ. 11. Họ đã trao số tiền đó cho các thợ mộc và thợ nề để mua đá tảng được đẽo sẵn, và gỗ để làm sườn nhà và đà ngang cho các tòa nhà mà các vua Giu-đa đã để cho hư hỏng. 12. Những thợ đã làm việc rất tận tâm cùng với những viên quản đốc: Gia-hát và Ô-ba-đi-a - là những người Lê-vi thuộc dòng dõi của Mê-ra-ri; Xa-cha-ria và Mê-shu-lam - thuộc dòng dõi của Kê-hát; và những người Lê-vi khác - tất cả là những nhạc sĩ tài ba. 13. Họ cũng coi sóc những phu khuân vác và chỉ huy mọi công nhân làm đủ mọi công việc. Trong số những người Lê-vi, có người làm thư ký, viên chức, và người gác cổng.
14. Trong khi người ta đem số tiền đã dâng vào Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, Tư tế Hinh-kia cho biết ông đã tìm được cuốn sách Luật Pháp của Đức Giê-hô-va được ban cho Môi-se. 15. Hinh-kia nói với Thư ký Sa-phan: “Tôi đã tìm được cuốn sách luật pháp trong Đền Thờ của Đức Giê-hô-va.” Rồi Hinh-kia trao sách đó cho Sa-phan.
16. Sa-phan đã đem cuốn sách trình cho vua, rồi thuật lại cho vua rằng: “Tất cả những công việc mà hoàng thượng đã giao cho các tôi tớ của ngài, họ đang thực hiện. 17. Họ đã lấy số tiền đã nhận được tại Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, rồi trao vào tay của các quản đốc và vào tay của những người thợ.”
18. Sau đó, Thư ký Sa-phan đã tâu với vua: “Tư tế Hinh-kia đã trao cho tôi một cuốn sách.” Rồi Sa-phan đọc sách đó trước mặt vua.
19. Sau khi vua nghe những lời ghi được trong sách Luật Pháp, ông đã xé trang phục của mình. 20. Vua đã truyền cho Hinh-kia, A-hi-cam - con trai của Sa-phan, Áp-đôn - con trai của Mi-ca, Thư ký Sa-phan, và quan cận thần của vua là A-sa-gia: 21. “Hãy vì ta và vì những người còn sót lại của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa mà đi cầu hỏi Đức Giê-hô-va về những lời trong sách đã tìm được. Bởi vì cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va đang giáng trên chúng ta rất lớn, vì các tổ phụ của chúng ta đã không tuân giữ những lời phán của Đức Giê-hô-va, và đã không làm theo những điều được ghi chép trong sách nầy.”
22. Sau đó, Hinh-kia và những người vua đã chỉ định, đến gặp nữ Tiên tri Hun-đa, là vợ của Sa-lum - người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu của Hát-ra. Bà cư trú tại quận Hai của Giê-ru-sa-lem. Họ đã hỏi bà về điều đó.
23. Sau đó, bà nói với họ: “Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: Hãy nói với người đã sai các ông đến gặp tôi rằng 24. Đức Giê-hô-va đã phán: ‘Nầy, Ta sẽ khiến tai họa giáng trên nơi nầy và trên những cư dân của nó, theo như tất cả những lời nguyền rủa đã được chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua của Giu-đa. 25. Bởi vì chúng đã lìa bỏ Ta mà dâng hương cho các thần khác. Chúng đã chọc giận Ta bằng mọi thứ do tay của chúng làm ra, cho nên cơn thịnh nộ của Ta sẽ đổ xuống nơi nầy, và sẽ không ngớt.’ 26. Về phần vua của Giu-đa, là người đã sai các ngươi cầu hỏi Đức Giê-hô-va, các ngươi hãy nói với người rằng đây là lời của Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán về những gì mà người đã nghe: 27. ‘Bởi vì ngươi đã mềm lòng, hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán nghịch lại nơi nầy và những cư dân tại đây. Ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, xé trang phục của mình và khóc lóc trước mặt Ta, cho nên Ta đã nghe ngươi.’ Đức Giê-hô-va phán như vậy. 28. ‘Nầy, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ phụ của ngươi. Ngươi sẽ được chôn cất bình an và mắt ngươi sẽ không thấy tất cả những tai họa mà Ta sẽ giáng xuống nơi nầy và những cư dân tại đây.’” Sau đó, họ đã đem những lời nầy trình lại cho vua.
29. Sau đó, vua đã triệu tập tất cả các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 30. Vua đã đi lên Đền Thờ của Đức Giê-hô-va, cùng với tất cả những người Giu-đa và cư dân của Giê-ru-sa-lem, các tư tế, những người Lê-vi, và toàn dân từ nhỏ cho đến lớn. Vua đã đọc vào tai của họ tất cả những lời đã được chép trong sách giao ước đã được tìm thấy trong Đền Thờ của Đức Giê-hô-va.
31. Vua đã đứng tại chỗ của mình, lập một giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa nguyện sẽ bước đi theo Đức Giê-hô-va, vâng giữ những điều răn, những mạng lịnh, và những luật lệ của Ngài với cả tấm lòng và với cả linh hồn của mình, và sẽ làm theo mọi lời của giao ước đã được chép trong sách nầy. 32. Ông đã truyền cho tất cả cư dân tại Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min đang hiện diện đứng lên để cam kết. Vì vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đã thực hiện theo giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ.
33. Giô-si-a đã loại bỏ tất cả những điều kinh tởm khỏi đất nước Y-sơ-ra-ên và làm cho mọi người đang sống trong nước Y-sơ-ra-ên phải thờ phượng và phụng sự Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời của ông, họ đã không lìa bỏ việc đi theo Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ.
Bản Dịch 1925
1. Giô-si-a được tám tuổi khi người lên ngôi làm vua, và cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2. Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va, và đi theo con đường của Đa-vít, tổ phụ người, không xây về bên hữu hay là bên tả.
3. Năm thứ tám đời người trị vì, khi người hãy còn trẻ tuổi, thì người khởi tìm kiếm Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ người; năm thứ mười hai, người khởi dọn sạch Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, trừ bỏ những nơi cao, thần A-sê-ra, tượng chạm và tượng đúc. 4. Trước mặt vua, người ta phá dỡ các bàn thờ Ba-anh, đánh đổ những trụ thờ mặt trời ở trên cao bàn thờ ấy; còn thần A-sê-ra, tượng chạm và tượng đúc, thì bẻ gãy, nghiền nát nó ra, rồi rải trên mồ mả của những kẻ đã cúng tế nó. 5. Người cũng thiêu hài cốt của những thầy tế lễ tại trên bàn thờ các thần ấy, và dọn sạch Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 6. Trong các thành của Ma-na-se, của Ép-ra-im, và của Si-mê-ôn, cho đến Nép-ta-li khắp chung quanh các nơi đổ nát, 7. người phá dỡ các bàn thờ và nghiền nát ra bụi những thần A-sê-ra, tượng chạm và tượng đúc, đánh đổ các trụ thờ mặt trời ở trong khắp xứ Y-sơ-ra-ên; rồi người trở về Giê-ru-sa-lem.
8. Năm thứ mười tám đời người trị vì, sau khi đã dọn sạch xứ và đền thờ rồi, thì người sai Sa-phan, con trai A-sa-lia, Ma-a-xê-gia, quan cai thành, và Giô-a, con trai Giô-a-cha, quan thái sử, đặng sửa sang đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời người. 9. Các người ấy đi đến cùng Hinh-kia, thầy tế lễ thượng phẩm, giao cho người tiền bạc đã đem vào đền Đức Chúa Trời, tức tiền bạc mà người Lê-vi, kẻ giữ cửa, đã nhận nơi tay người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và nơi những kẻ còn sót lại trong Y-sơ-ra-ên, cùng nhận nơi cả Giu-đa, Bên-gia-min và những dân cư thành Giê-ru-sa-lem. 10. Chúng giao bạc ấy nơi tay những người coi sóc công việc của đền Đức Giê-hô-va; họ phát cho các thợ đặng tu bổ, sửa sang đền thờ: 11. tức giao cho thợ mộc, thợ xây đặng mua đá đẽo, cây gỗ để ráp nối,và làm sườn cho các nhà thuộc về đền mà các vua Giu-đa đã phá hủy. 12. Các thợ ấy đều làm công việc cách thành tâm. Kẻ quản đốc các thợ ấy là Gia-hát và Ô-ba-đia, hai người Lê-vi thuộc về dòng Mê-ra-ri; Xa-cha-ri và Mê-su-lam về dòng Kê-hát, cùng mấy người Lê-vi khác, đánh nhạc khí giỏi. 13. Chúng cũng quản đốc kẻ khiêng gánh, và coi sóc những người làm đủ mọi thứ công việc; còn những ký lục, quan cai và kẻ canh cửa đều là người Lê-vi.
14. Khi người ta đem bạc đã đem vào đền Đức Giê-hô-va ra, thì Hinh-kia, thầy tế lễ, tìm được cuốn sách luật pháp của Đức Giê-hô-va truyền lại bởi Môi-se. 15. Hinh-kia cất tiếng lên nói với thơ ký Sa-phan rằng: Ta có tìm được cuốn sách luật pháp ở trong đền của Đức Giê-hô-va. Rồi Hinh-kia giao sách ấy cho Sa-phan. 16. Sa-phan đem sách đó cho vua; rồi người cũng tâu với vua rằng: Mọi việc giao nơi tay các tôi tớ vua thì họ đang làm. 17. Chúng đã lấy bạc tìm được trong đền Đức Giê-hô-va ra, và đã giao nơi tay các đốc công và những người làm công việc. 18. Thơ ký Sa-phan lại tâu với vua rằng: Thầy tế lễ Hinh-kia có trao cho tôi một cuốn sách. Sa-phan bèn đọc tại trước mặt vua. 19. Xảy khi vua nghe các lời luật pháp rồi, thì xé áo mình. 20. Vua truyền lịnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con trai của Sa-phan, Áp-đôn, con trai của Mi-ca, Sa-phan, thơ ký, và A-sa-gia, quan cận thần vua, mà rằng: 21. Hãy vì ta, vì các người Y-sơ-ra-ên và vì người Giu-đa còn sót lại, mà đi cầu vấn Đức Giê-hô-va về các lời phán của sách này đã tìm lại được vì cơn giận của Đức Giê-hô-va đã giáng trên chúng ta thật lớn thay, bởi các tổ phụ ta không gìn giữ lời phán của Đức Giê-hô-va, và chẳng làm theo các điều đã chép trong sách này.
22. Hinh-kia và các kẻ vua sai đi đến Hun-đa, nữ tiên tri, vợ của Sa-lum, là người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu Hát-ra; bà ở tại Giê-ru-sa-lem trong quận thứ nhì; chúng nói với bà theo các lời vua đã phán. 23. Bà bèn nói với chúng rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy nói cùng người đã sai các ngươi đến cùng ta rằng: 24. Đức Giê-hô-va phán như vầy: nầy ta sẽ khiến các tai vạ giáng trên chỗ này và trên dân ở chỗ này, tức là các sự rủa sả chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. 25. Bởi vì chúng đã lìa bỏ ta, xông hương cho các tà thần, lấy các công việc tay chúng nó làm mà chọc giận ta; nên cơn thạnh nộ ta sẽ đổ ra trên chỗ này, không hề nguôi. 26. Còn vua Giu-đa đã sai các ngươi đi cầu vấn Đức Giê-hô-va, các ngươi hãy nói cho người như vầy: Về các lời ngươi đã nghe, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: 27. Khi ngươi nghe lời ta phán nghịch cùng chỗ này, và nghịch cùng dân cư nó, thì ngươi có lòng mềm mại, hạ mình xuống trước mặt ta, xé áo ngươi, và khóc lóc tại trước mặt ta; bởi vậy cho nên ta cũng có nghe ngươi. 28. Kìa, ta sẽ khiến ngươi về cùng tổ phụ ngươi, ngươi sẽ được chôn bình an, và mắt ngươi sẽ chẳng thấy các tai vạ ta toan giáng xuống trên chốn này cùng trên dân cư nó. Chúng bèn tâu lại cho vua những lời ấy.
29. Vua bèn sai người nhóm các trưởng lão Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 30. Đoạn, vua đi lên đền Đức Giê-hô-va, có hết thảy người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và cả dân sự, từ nhỏ đến lớn, đều đi theo người; người đọc cho chúng nghe các lời của sách giao ước đã tìm được trong đền của Đức Giê-hô-va, 31. Vua đứng tại chỗ mình, lập giao ước trước mặt Đức Giê-hô-va, hứa đi theo Đức Giê-hô-va, hết lòng hết ý gìn giữ các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, đặng làm trọn lời giao ước đã chép trong sách ấy. 32. Người cũng khiến những người ở Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min ưng theo giao ước ấy. Vậy, dân cư Giê-ru-sa-lem đều làm theo giao ước của Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. 33. Giô-si-a cất hết thảy sự gớm ghiếc khỏi các xứ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, và buộc hết thảy những người ở xứ Y-sơ-ra-ên phải phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời Giô-si-a, chúng hằng theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, chẳng lìa bỏ Ngài.
Bản Dịch 2011
Triều Ðại của Giô-si-a
(2 Vua 22:1-2)
1 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Ông làm điều tốt trước mặt CHÚA và bước đi trong các đường lối của Ða-vít tổ tiên ông, không quay qua bên phải hoặc bên trái.
3 Năm thứ tám triều đại của ông, dù lúc đó ông chỉ là một thiếu niên, ông bắt đầu tìm kiếm Ðức Chúa Trời của Ða-vít tổ tiên ông. Ðến năm thứ mười hai ông bắt đầu làm sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem các tế đàn trên những nơi cao, các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc của các tà thần. 4 Dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông, người ta đập nát các bàn thờ của Thần Ba-anh. Ông hủy phá các bàn thờ dâng hương trên các nơi đó, và ông đập ra thành mảnh vụn các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, các tượng chạm, và các tượng đúc. Ông nghiền chúng ra thành bụi và đem rắc trên mộ của những kẻ đã dâng các thú vật hiến tế cho chúng. 5 Ông thiêu xương các tư tế của các thần ấy trên các bàn thờ chúng đã dùng để dâng các thú vật hiến tế cho thần tượng. Vậy ông tẩy sạch khỏi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sự thờ lạy tà thần. 6 Sau đó ông đến các thành trong lãnh thổ của Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, và tận miền Náp-ta-li, cùng những nơi đổ nát hoang tàn chung quanh chúng và cũng làm như vậy. 7 Ông đập đổ tan tành các bàn thờ thần tượng và các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông nghiền nát các hình tượng ra thành bụi và phá hủy tất cả các bàn thờ dâng hương cho các thần tượng trong khắp nước I-sơ-ra-ên; sau đó ông trở về Giê-ru-sa-lem.
Công Trình Tu Bổ Ðền Thờ
(2 Vua 22:3-7)
8 Vào năm thứ mười tám của triều đại ông, sau khi đã làm sạch khỏi xứ và Ðền Thờ sự thờ lạy tà thần, ông sai Sa-phan con của A-xa-li-a, Ma-a-sê-gia thị trưởng của kinh thành, và Giô-a con của Giô-a-ha quan ký lục lo việc sửa sang Ðền Thờ CHÚA, Ðức Chúa Trời của ông. 9 Họ đến gặp Thượng Tế Hinh-ki-a để trao số tiền dân đã đem dâng ở Nhà Ðức Chúa Trời mà những người Lê-vi chịu trách nhiệm giữ cửa đã nhận được do dân từ các chi tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, những người còn sót lại của I-sơ-ra-ên, toàn dân Giu-đa, Bên-gia-min, và dân cư Giê-ru-sa-lem đem đến dâng. 10 Họ trao số tiền đó tận tay những người có uy tín trông coi việc sửa sang Ðền Thờ CHÚA. Những người đó dùng tiền ấy trả công cho những thợ sửa chữa và chỉnh trang Ðền Thờ. 11 Họ trao số tiền đó cho các thợ mộc và thợ nề để mua đá tảng đẽo sẵn, gỗ để làm sườn nhà và đà ngang cho các tòa nhà của Ðền Thờ mà các vua Giu-đa trước đã bỏ bê khiến bị suy sụp. 12 Những thợ đó đã làm việc rất tận tâm dưới sự điều động của Gia-hát và Ô-ba-đi-a, hai người Lê-vi dòng dõi của Mê-ra-ri, cùng với sự giám thị của Xa-cha-ri-a và Mê-su-lam con cháu của Kê-hát. Những người Lê-vi khác, tất cả vốn là những nhạc sĩ tài ba, 13 được lập làm quản đốc những người khuân vác và làm giám thị các nhân công trong mọi công tác tái thiết. Một số người Lê-vi khác nữa làm thư ký, quản lý, và người giữ cửa.
Tìm Ðược Sách Luật Pháp
(2 Vua 22:8-13)
14 Trong khi họ lấy tiền dân chúng đã dâng ở Ðền Thờ CHÚA ra đếm để trao cho ông, Tư Tế Hinh-ki-a cho họ biết ông đã tìm được cuộn sách Luật Pháp mà CHÚA đã ban cho dân qua Môi-se. 15 Hinh-ki-a nói với Quan Bí Thư Sa-phan, “Tôi đã tìm được cuộn sách Luật Pháp trong Ðền Thờ CHÚA.” Kế đó Hinh-ki-a trao cuộn sách ấy cho Sa-phan. 16 Sa-phan mang cuộn sách ấy đến cho vua và báo cáo, “Mọi việc hoàng thượng giao cho các tôi tớ ngài, họ đều thi hành nghiêm túc. 17 Họ đã lấy hết số tiền đã nhận được ở Ðền Thờ CHÚA và trao tận tay các giám thị và các nhân công.” 18 Kế đó Quan Bí Thư Sa-phan tâu với vua, “Tư Tế Hinh-ki-a có trao cho hạ thần một cuộn sách.” Rồi Sa-phan đọc sách ấy cho vua nghe. 19 Sau khi vua nghe những lời ghi trong sách Luật Pháp, vua xé rách y phục của ông. 20 Vua truyền lịnh cho Hinh-ki-a, A-hi-cam con của Sa-phan, Áp-đôn con của Mi-chê, Quan Bí Thư Sa-phan, và A-sa-gia mưu sĩ của vua rằng, 21 “Các ngươi hãy đi cầu hỏi ý CHÚA cho ta và cho những người còn sót lại trong I-sơ-ra-ên và Giu-đa về những lời đã chép trong cuộn sách tìm được ấy, vì cơn thịnh nộ của CHÚA sẽ đổ xuống trên chúng ta thật lớn thay, vì cha ông chúng ta đã không vâng giữ những lời của CHÚA mà làm theo mọi điều đã chép trong sách ấy.”
Tham Vấn Nữ Tiên Tri Hun-đa
(2 Vua 22:14-20)
22 Vậy Hinh-ki-a và những người vua sai đi với ông đến gặp Nữ Tiên Tri Hun-đa. Bà là vợ của Sanh-lum con của Tô-khát cháu của Hạc-ra, người giữ các áo lễ của Ðền Thờ. Bà ấy đang ở Quận Nhì của Giê-ru-sa-lem. 23 Bà nói với họ, “CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này: Hãy nói với người sai các ông đến gặp tôi: 24 CHÚA phán thế này: ‘Này, Ta sẽ đem tai họa giáng xuống nơi này và trên dân cư ở đây, để làm ứng nghiệm mọi lời nguyền rủa đã chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. 25 Bởi vì chúng đã quên Ta mà dâng hương cho các thần khác. Chúng đã dùng mọi tác phẩm do tay chúng làm ra chọc giận Ta; vì thế cơn giận của Ta trút ra ở nơi này, và nó sẽ không nguôi đâu.’ 26 Còn về vua Giu-đa, người đã sai các ông đi cầu hỏi CHÚA, đây là những gì các ông hãy nói với người ấy: CHÚA, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này: ‘Về những lời ngươi đã nghe: 27 Vì lòng ngươi mềm mại, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán về nơi này và dân cư ở đây, ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, ngươi đã xé rách y phục của ngươi và khóc trước mặt Ta,’ CHÚA phán, 28 ‘Này, Ta sẽ đem ngươi về với tổ tiên ngươi, và ngươi sẽ được chôn cất bình an, mắt ngươi sẽ không phải nhìn thấy những tai họa Ta sẽ giáng xuống nơi này và trên dân cư ở đây.’” Vậy họ trở về thuật lại cho vua sứ điệp họ đã nhận được.
Tái Lập Giao Ước
(2 Vua 23:1-20)
29 Bấy giờ vua sai các sứ giả đi mời tất cả các vị trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến. 30 Kế đó vua với toàn dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem đi lên Ðền Thờ CHÚA, với các tư tế và những người Lê-vi, tức mọi người, cả lớn lẫn nhỏ. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong Sách Giao Ước đã tìm được trong Ðền Thờ CHÚA. 31 Sau đó vua đứng tại chỗ của mình và lập một giao ước trước mặt CHÚA, hứa nguyện sẽ bước đi theo CHÚA, vâng giữ các điều răn, các mạng lịnh, và các luật lệ của Ngài một cách hết lòng và hết linh hồn mình, và sẽ làm theo mọi lời của giao ước đã ghi trong sách. 32 Ông yêu cầu mọi người sống ở Giê-ru-sa-lem và chi tộc Bên-gia-min tuyên thệ sẽ làm theo như thế. Vậy mọi người đang ở Giê-ru-sa-lem lúc đó đều hứa nguyện sẽ vâng giữ giao ước của Ðức Chúa Trời, thần của tổ tiên họ.
33 Giô-si-a dẹp bỏ mọi thần tượng gớm ghiếc ra khỏi toàn thể lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên. Ông yêu cầu mọi người sống trong lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên lúc bấy giờ chỉ thờ phượng một mình CHÚA, Ðức Chúa Trời của họ, mà thôi. Suốt những ngày của đời ông, họ không lìa bỏ CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, nhưng luôn tin thờ Ngài.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- I Các Vua
- II Các Vua
- I Sử Ký
- II Sử Ký
- II Sử Ký: Chương 33
- II Sử Ký: Chương 35
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành