Thi Thiên: Chương 119
Bản Dịch Việt Ngữ
Aleph - א
1. Phước cho những người bước đi cách không chỗ trách được trong luật pháp của Đức Giê-hô-va. 2. Phước cho những người vâng giữ các chứng ngôn của Ngài và tìm kiếm Ngài hết lòng. 3. Họ không làm điều gian ác, nhưng đi trong đường lối của Ngài. 4. Ngài đã truyền những mạng lệnh của Ngài để chúng con cẩn thận gìn giữ. 5. Ôi, ước gì đường lối của con được kiên định trong việc vâng giữ những luật lệ của Ngài, 6. để con sẽ không xấu hổ khi con xem xét tất cả những điều răn của Ngài. 7. Con sẽ cảm tạ Ngài với tấm lòng ngay thẳng khi con học hỏi những phán quyết công chính của Ngài. 8. Con sẽ vâng giữ những luật lệ của Ngài - Xin đừng từ bỏ con hoàn toàn!
Beth - ב
9. Làm thế nào để một người trẻ có thể giữ đường lối của mình được trong sạch? Phải cẩn thận làm theo lời của Ngài. 10. Con đã hết lòng tìm kiếm Ngài, xin đừng để con xa lạc khỏi những điều răn của Ngài. 11. Con đã giấu lời Ngài trong lòng con, để con không phạm tội cùng Ngài. 12. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài thật đáng được chúc tụng. Xin dạy con những luật lệ của Ngài! 13. Con đã dùng môi của mình công bố tất cả những mạng lịnh từ miệng của Ngài. 14. Con vui mừng làm theo những chứng ngôn của Ngài như là con được giàu có. 15. Con sẽ suy gẫm những kỷ cương của Ngài, tôn kính những đường lối của Ngài. 16. Con sẽ vui thích trong những luật lệ của Ngài và sẽ không quên lời của Ngài.
Gimel - ג
17. Xin rộng lượng cùng con, là đầy tớ của Ngài, để con được sống và vâng giữ lời của Ngài. 18. Xin mở mắt cho con, để con có thể thấy được những việc diệu kỳ trong luật pháp của Ngài. 19. Con chỉ là một lữ khách xa lạ trên đất, xin đừng giấu những điều răn của Ngài khỏi con. 20. Linh hồn con tan vỡ vì luôn luôn mong chờ những phán quyết của Ngài. 21. Xin Ngài quở trách những kẻ kiêu ngạo đáng bị nguyền rủa, là những kẻ đi lạc xa những điều răn của Ngài. 22. Xin cất khỏi con sự sỉ nhục và khinh khi, bởi vì con vâng giữ các chứng ngôn của Ngài. 23. Dù những người cai trị ngồi xuống bàn định chống lại con, nhưng tôi tớ của Ngài vẫn quyết tâm suy gẫm những luật lệ của Ngài. 24. Những chứng ngôn của Ngài là niềm vui của con, là những cố vấn của con.
Daleth - ד
25. Linh hồn con đang vướng vào cát bụi, xin hãy làm cho con được hồi sinh theo lời của Ngài. 26. Con đã trình bày với Ngài đường lối của con, và Ngài đã trả lời con. Xin dạy cho con những luật lệ của Ngài. 27. Xin cho con hiểu ý được những kỷ cương của Ngài, để con suy gẫm những việc diệu kỳ của Ngài. 28. Linh hồn con đang đổ lệ vì thảm sầu, xin làm cho con được mạnh mẽ theo lời của Ngài. 29. Xin tách con khỏi con đường dối trá, và vui lòng ban cho con luật pháp của Ngài. 30. Con đã chọn con đường chân thật và đặt những phán quyết của Ngài ở trước mặt con. 31. Con đang bám chặt vào những chứng ngôn của Ngài, Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng để con bị hổ thẹn. 32. Con sẽ chạy theo con đường thuộc về những giới răn của Ngài, bởi vì Ngài sẽ mở rộng tấm lòng của con.
He - ה
33. Đức Giê-hô-va ôi! Xin dạy con về đường lối của các luật lệ Ngài, để con vâng giữ nó cho đến cùng. 34. Xin ban cho con sự thông sáng để con tuân theo luật pháp của Ngài và vâng giữ nó hết lòng. 35. Xin khiến con đi trong đường lối của các điều răn Ngài bởi vì con yêu thích được ở trong đó. 36. Xin khiến lòng con hướng về các chứng ngôn của Ngài, đừng hướng về lợi lộc bất chính. 37. Xin xoay mắt của con đừng nhìn xem những điều vô giá trị, nhưng cho con sống theo đường lối của Ngài. 38. Xin làm ứng nghiệm lời của Ngài trên tôi tớ của Ngài, là người kính sợ Ngài. 39. Xin cất khỏi con sự sỉ nhục mà con lo sợ, bởi vì phán quyết của Ngài thật tốt lành. 40. Kìa, con mong ước những kỷ cương của Ngài. Xin khiến con được sống trong sự công chính của Ngài.
Vav - ו
41. Đức Giê-hô-va ôi! Nguyện tình thương của Ngài và sự cứu rỗi của Ngài đến với con theo lời hứa của Ngài, 42. để con có thể đối đáp với kẻ sỉ nhục con - bởi vì con tin cậy nơi lời của Ngài. 43. Xin đừng cất khỏi miệng con những lời chân thật - bởi vì con hoàn toàn hy vọng vào các mạng lịnh của Ngài. 44. Con sẽ tiếp tục vâng giữ luật pháp của Ngài cho đến đời đời vô cùng. 45. Con sẽ bước đi trong tự do - bởi vì con tìm kiếm những kỷ cương của Ngài. 46. Con sẽ thuật lại những chứng ngôn của Ngài trước mặt các vua và sẽ không bị hổ thẹn. 47. Con vui thích những điều răn của Ngài bởi vì con yêu mến chúng. 48. Con đưa tay lên hướng về những điều răn cùa Ngài, mà con yêu mến. Con sẽ suy gẫm những luật lệ của Ngài.
Zayin - ז
49. Xin nhớ lại lời đã tuyên hứa với tôi tớ của Ngài, vì Ngài đã khiến con hy vọng nơi lời đó. 50. Đây là niềm an ủi của con trong hoạn nạn, bởi vì lời của Ngài đem lại sức sống cho con. 51. Những kẻ kiêu ngạo đã chế nhạo con quá mức, nhưng con vẫn không xây khỏi luật pháp của Ngài. 52. Đức Giê-hô-va ôi! Con nhớ lại những phán quyết của Ngài từ xưa, và con được an ủi. 53. Sự phẫn nộ đã chiếm hữu con bởi vì những kẻ gian ác đã từ bỏ luật pháp của Ngài. 54. Luật lệ của Ngài là những bài ca của con, trong căn nhà của cuộc đời lữ hành của con. 55. Đức Giê-hô-va ôi! Con nhớ đến danh Ngài trong ban đêm, và con gìn giữ luật lệ của Ngài. 56. Nó đã trở thành vật sở hữu của con, bởi vì con vâng giữ những kỷ cương của Ngài.
Heth - ח
57. Đức Giê-hô-va là phần cơ nghiệp của con. Con đã nói rằng con sẽ vâng giữ lời của Ngài. 58. Con đã hết lòng cầu khẩn ơn của Ngài, xin thương xót con tùy theo lời của Ngài. 59. Con đã suy gẫm về những đường lối của con, và con đã quay về với những chứng ngôn của Ngài. 60. Con đã vội vàng, không chậm trễ vâng giữ những điều răn của Ngài. 61. Những dây của kẻ ác đã trói buộc con, nhưng con vẫn không quên luật pháp của Ngài. 62. Con sẽ trỗi dậy giữa đêm khuya để cảm tạ Ngài, bởi vì những phán quyết công chính của Ngài. 63. Con là bạn của tất cả những người kính sợ Ngài, tức là những người gìn giữ những kỷ cương của Ngài. 64. Đức Giê-hô-va ôi! Khắp đất đầy dẫy sự nhân từ của Ngài. Xin dạy con những luật lệ của Ngài.
Teth - ט
65. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài đã đối xử thật tốt với đầy tớ của Ngài theo đúng lời của Ngài. 66. Xin dạy con sự hiểu biết và biết quyết định đúng đắn bởi vì con tin cậy nơi những điều răn của Ngài. 67. Con đã lầm lạc trước khi con bị khốn khổ, nhưng bây giờ con vâng giữ lời của Ngài. 68. Ngài là thiện và là Đấng làm điều thiện, xin dạy con những luật lệ của Ngài. 69. Những kẻ ngạo mạn đã phao vu chống lại con, nhưng con sẽ hết lòng tuân giữ những kỷ cương của Ngài. 70. Lòng của họ trơn như mỡ, nhưng con yêu thích luật pháp của Chúa. 71. Hoạn nạn là điều tốt cho con, nhờ đó con học biết những luật lệ của Ngài. 72. Luật pháp từ miệng Ngài đối với con tốt hơn ngàn vàng và bạc.
Yodh - י
73. Tay Ngài đã dựng nên con và nắn nên hình hài của con, xin ban cho con sự hiểu biết để con học những điều răn của Ngài. 74. Những người kính sợ Ngài sẽ vui mừng khi thấy con, bởi vì con đặt hy vọng nơi lời của Ngài. 75. Đức Giê-hô-va ôi! Con biết rằng sự phán xét của Ngài là công chính, và vì sự thành tín, mà Ngài đã làm cho con bị khổ nạn. 76. Nguyện tình thương của Ngài an ủi con theo như lời Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài. 77. Nguyện sự thương xót của Ngài đến với con để con được sống, bởi vì luật pháp của Ngài là niềm vui thích của con. 78. Nguyện những kẻ ngạo mạn phải bị hổ thẹn vì đã phao vu chống lại con, nhưng con sẽ suy gẫm những kỷ cương của Ngài. 79. Nhuyện những người kính sợ Ngài trở lại với con, tức là những người am hiểu các chứng ngôn của Ngài. 80. Nguyện lòng con không có gì đáng trách theo những luật lệ của Ngài, để con không bị hổ thẹn.
Kaph - כ
81. Linh hồn của con mòn mỏi trông mong sự cứu rỗi của Ngài, con hy vọng nơi lời của Ngài, 82. mắt con mòn mỏi vì tìm kiếm lời của Ngài, khi nào Ngài mới an ủi con? 83. Dù con trở thành một bầu da bị hun khói, con vẫn không quên những luật lệ của Ngài. 84. Đầy tớ Ngài có được bao nhiêu ngày? Khi nào Ngài mới thi hành sự phán xét những kẻ bách hại con? 85. Những kẻ kiêu ngạo không theo luật pháp của Ngài đã đào hầm để hại con. 86. Tất cả những điều răn của Ngài thật đáng tín nhiệm, xin giúp đỡ con vì họ vu khống để hãm hại con, 87. họ gần như diệt con khỏi mặt đất, nhưng con không từ bỏ mạng lệnh của Ngài. 88. Xin phục hồi con theo tình thương của Ngài để con sẽ gìn giữ những chứng ngôn của miệng Ngài.
Lamedh - ל
89. Đức Giê-hô-va hiện hữu đời đời. Lời của Ngài được vững lập trên trời. 90. Ðức thành tín của Ngài trải từ đời nọ đến đời kia. Ngài đã thiết lập trái đất, và nó đang đứng vững. 91. Theo mạng lịnh của Ngài, chúng tồn tại cho đến ngày nay, bởi vì tất cả đều là tôi tớ của Ngài. 92. Nếu luật pháp của Ngài không phải là điều con yêu thích, thì con đã bị tiêu diệt trong cơn hoạn nạn của con. 93. Con sẽ không bao giờ quên những kỷ cương của Ngài, bởi vì nhờ chúng, Ngài đã cho con được phục hồi sinh lực. 94. Xin cứu con, bởi vì con thuộc về Ngài, bởi vì con tìm kiếm những kỷ cương của Ngài. 95. Những kẻ ác chờ đợi để hủy diệt con, nhưng con chuyên tâm suy gẫm những chứng ngôn của Ngài. 96. Con đã thấy giới hạn của tất cả những điều toàn hảo, nhưng những điều răn của Ngài thì vô cùng rộng lớn.
Mem - מ
97. Con yêu mến luật pháp của Ngài biết bao! Trọn ngày con suy ngẫm nó. 98. Những điều răn của Ngài làm cho con khôn ngoan hơn những kẻ thù của con, bởi vì những điều đó luôn luôn là vật sở hữu của con. 99. Con thấu hiểu hơn tất cả những người dạy con, bởi vì con suy ngẫm những chứng ngôn của Ngài. 100. Con am hiểu hơn những bậc lão thành, bởi vì con tuân giữ những kỷ cương của Ngài. 101. Con giữ chân con tránh mọi đường lối gian tà, để con vâng giữ lời của Ngài. 102. Con không lìa bỏ những phán quyết của Ngài, bởi vì Ngài đã dạy dỗ con. 103. Lời của Ngài thật ngọt ngào cho khẩu vị của con, ngọt hơn mật ong trong miệng của con. 104. Nhờ những kỷ cương của Ngài, con được thông sáng, vì vậy con ghét mọi đường lối gian dối.
Nun - נ
105. Lời của Ngài là ngọn đèn cho chân của con, là ánh sáng cho đường lối của con. 106. Con đã hứa nguyện và sẽ thi hành điều đó: Con sẽ gìn giữ những phán quyết công chính của Ngài. 107. Con đã bị khốn khổ tột cùng. Đức Giê-hô-va ôi! Xin cho con được phục hồi sức sống bằng lời của Ngài. 108. Đức Giê-hô-va ôi! Con cầu xin Ngài nhậm những lễ vật tự nguyện từ miệng của con và xin dạy con những phán quyết của Ngài. 109. Cuộc đời của con đang tiếp tục ở trong tay của con, nhưng con không quên luật pháp của Ngài. 110. Kẻ ác đã gài bẫy để hại con, nhưng con không rời khỏi những kỷ cương của Ngài. 111. Con đã thừa hưởng những chứng ngôn của Ngài mãi mãi, bởi vì chúng là niềm vui của lòng con. 112. Con đã hướng lòng của mình để thực hành luật lệ của Ngài mãi mãi, cho đến tận cùng.
Samekh - ס
113. Con ghét những kẻ hai lòng, nhưng con yêu mến luật pháp của Ngài. 114. Ngài là nơi nương náu và là thuẫn khiên của con, con hy vọng nơi lời của Ngài. 115. Hỡi những kẻ làm ác, hãy lìa khỏi ta, để ta vâng giữ những điều răn của Ðức Chúa Trời của ta. 116. Xin nâng đỡ con theo lời của Ngài để con được sống, xin đừng để cho niềm hy vọng của con bị hổ thẹn. 117. Xin gìn giữ con, để con sẽ được an toàn, và con sẽ tiếp tục tôn kính những luật lệ của Ngài. 118. Ngài đã loại trừ tất cả những kẻ đi xa lạc khỏi những luật lệ của Ngài, bởi vì những sự giả dối của chúng chỉ để lừa đảo. 119. Ngài đã loại bỏ tất cả những kẻ ác trên đất như là những vật cặn bã, vì vậy con yêu mến những chứng ngôn của Ngài. 120. Thân thể con run rẩy vì kính sợ Ngài. Con khiếp sợ sự phán xét của Ngài.
Ayin - ע
121. Con đã hành động cách công bình và chính trực, xin đừng bỏ con cho những kẻ áp bức con. 122. Xin bảo đảm để tôi tớ của Ngài được tốt lành, xin đừng để những kẻ kiêu ngạo đàn áp con. 123. Mắt con mỏi mòn trông đợi sự cứu rỗi và lời công chính của Ngài. 124. Xin đối đãi với tôi tớ của Ngài theo tình thương của Ngài, và xin dạy con những luật lệ của Ngài. 125. Con là tôi tớ của Ngài. Xin ban cho con sự hiểu biết để con hiểu những chứng ngôn của Ngài. 126. Đức Giê-hô-va ôi! Đây là lúc Ngài hành động, bởi vì người ta phá bỏ những luật lệ của Ngài. 127. Nhưng con yêu mến những điều răn của Ngài hơn vàng, thậm chí hơn vàng ròng. 128. Thật vậy, con làm đúng theo tất cả những mạng lệnh của Ngài trong mọi việc, và con ghét mọi đường lối giả dối.
Pe - פ
129. Những chứng ngôn Ngài thật diệu kỳ, vì vậy tâm hồn con gìn giữ chúng. 130. Sự giải bày lời của Ngài đem lại ánh sáng, mang sự hiểu biết cho người chân chất. 131. Miệng con mở ra khao khát vì mong chờ những điều răn của Ngài. 132. Xin hãy đoái xem con, và thương xót con, như cách Ngài vẫn thường làm đối với những người yêu mến danh của Ngài. 133. Xin cho những bước chân của con được vững lập trong lời của Ngài. Xin đừng để tội lỗi nào thống trị trên con. 134. Xin cứu con khỏi sự áp bức của loài người, để con vâng giữ những kỷ cương của Ngài. 135. Xin mặt Ngài soi sáng trên đầy tớ của Ngài, và dạy con những luật lệ của Ngài. 136. Mắt con tuôn chảy những suối lệ bởi vì người ta không gìn giữ luật pháp của Ngài.
Tsadhe - צ
137. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài là công chính - sự phán xét của Ngài là chính trực. 138. Các chứng ngôn Ngài đã truyền thật công chính, và rất đáng tin cậy. 139. Lòng nhiệt thành của con nung đốt con, bởi vì những kẻ thù của con đã quên lời của Ngài. 140. Lời của Ngài thật tinh khiết, vì vậy tôi tớ của Ngài yêu nó. 141. Dầu con nhỏ bé và bị khinh thường, nhưng con không quên những kỷ cương của Ngài. 142. Ðức công chính của Ngài là đức công chính đời đời, luật pháp của Ngài là chân thật. 143. Gian truân và sầu khổ đã đến với con, tuy nhiên những điều răn của Ngài vẫn là niềm vui của con. 144. Các chứng ngôn của Ngài là công chính đời đời. xin ban cho con sự hiểu biết để con có thể sống.
Qoph - ק
145. Đức Giê-hô-va ôi! Con hết lòng cầu khẩn Ngài, xin đáp lời của con để con sẽ vâng giữ những luật lệ của Ngài. 146. Con kêu cầu cùng Ngài, xin giải cứu con để con vâng giữ những chứng ngôn của Ngài. 147. Con thức dậy trước rạng đông và kêu cầu, vì con hy vọng nơi lời của Ngài. 148. Mắt con thức tỉnh suốt những canh đêm để suy gẫm lời của Ngài. 149. Đức Giê-hô-va ôi! Xin nghe tiếng của con tùy theo tình thương của Ngài. Xin phục hồi sức sống cho con theo phán quyết của Ngài. 150. Những kẻ đeo đuổi việc ác đang kéo đến - Chúng là những kẻ xa cách với luật pháp của Ngài. 151. Đức Giê-hô-va ôi! Ngài đang ở gần con, và tất cả những điều răn của Ngài là chân thật. 152. Từ xa xưa, con đã học biết những chứng ngôn của Ngài, và biết rằng Ngài đã lập chúng cho đến đời đời.
Resh - ר
153. Cầu xin Ngài xem xét sự đau khổ của con và giải cứu con, bởi vì con không quên luật pháp của Ngài. 154. Xin bào chữa cho con và cứu con - Xin phục hồi sức sống cho con theo lời của Ngài. 155. Sự cứu rỗi cách xa kẻ ác, bởi vì chúng không tìm kiếm những luật lệ của Ngài. 156. Đức Giê-hô-va ôi! Sự thương xót của Ngài thật lớn lao - Xin phục hồi sức sống cho con theo những phán quyết của Ngài. 157. Những kẻ bách hại con và những kẻ thù nghịch con rất nhiều, nhưng con không từ bỏ những chứng ngôn của Ngài. 158. Con thấy những kẻ phản bội và kinh tởm chúng, bởi vì chúng không vâng giữ lời của Ngài. 159. Đức Giê-hô-va ôi! Hãy xem con yêu mến những kỷ cương của Ngài biết chừng nào - Xin phục hồi sức sống cho con theo tình thương của Ngài. 160. Toàn bộ lời Ngài là chân thật, và mỗi một mạng lịnh công chính của Ngài sẽ tồn tại đến đời đời.
Shin - ש
161. Những kẻ có quyền hành đã bách hại con vô cớ, dầu vậy lòng con vẫn kính sợ lời của Ngài. 162. Con vui mừng về lời của Ngài, như một người thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. 163. Con ghét và ghê tởm sự dối trá, nhưng con yêu mến luật pháp của Ngài. 164. Mỗi ngày con ca ngợi Ngài bảy lần vì những phán quyết công chính của Ngài. 165. Những người yêu mến luật pháp của Ngài được thật nhiều bình an, và không có gì làm cho họ vấp ngã. 166. Đức Giê-hô-va ôi! Con hy vọng nơi sự cứu rỗi của Ngài, và con thực hành những điều răn của Ngài. 167. Linh hồn con vâng giữ những chứng ngôn của Ngài, và con yêu chúng vô cùng. 168. Con vâng giữ những kỷ cương và chứng ngôn của Ngài, bởi vì tất cả những đường lối của con đều ở trước mặt Ngài.
Tav - ת
169. Đức Giê-hô-va ôi! Nguyện lời kêu cầu của con thấu đến trước mặt Ngài - Xin ban cho con sự thông hiểu theo lời của Ngài. 170. Nguyện lời thỉnh cầu của con thấu đến trước mặt Ngài - Xin giải cứu con theo lời của Ngài. 171. Nguyện môi con thốt lên lời ca ngợi, bởi vì Ngài dạy dỗ con những luật lệ của Ngài. 172. Lưỡi con sẽ nói ra lời của Ngài, bởi vì tất cả những điều răn của Ngài là công chính. 173. Nguyện tay của Ngài giúp đỡ con, vì con đã chọn những kỷ cương của Ngài. 174. Đức Giê-hô-va ôi! Con trông mong sự cứu rỗi của Ngài - Luật pháp của Ngài là niềm vui của con. 175. Nguyện linh hồn con được sống để ca ngợi Ngài - Nguyện những phán quyết của Ngài giúp đỡ con. 176. Con lạc lối như một con chiên đi lạc, xin tìm kiếm tôi tớ của Ngài, bởi vì con không quên những điều răn của Ngài.
Bản Dịch 1925
1. Phước cho những người trọn vẹn trong đường lối mình, Đi theo luật pháp của Đức Giê-hô-va,
2. Phước cho những người gìn giữ chứng cớ Ngài, Và hết lòng tìm cầu Ngài.
3. Họ không làm trái phép công bình, Nhưng đi trong các lối Ngài.
4. Chúa đã truyền cho chúng tôi các giềng mối Chúa, Hầu cho chúng tôi cẩn thận giữ lấy.
5. Ô! chớ chi đường lối tôi được vững chắc, Để tôi giữ các luật lệ Chúa!
6. Khi tôi chăm chỉ về các điều răn Chúa, Thì chẳng bị hổ thẹn.
7. Khi tôi học các đoán ngữ công bình của Chúa, Thì tôi sẽ lấy lòng ngay thẳng mà ngợi khen Chúa.
8. Tôi sẽ giữ các luật lệ Chúa; Xin chớ bỏ tôi trọn.
9. Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa.
10. Tôi hết lòng tìm cầu Chúa, Chớ để tôi lạc các điều răn Chúa.
11. Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, Để tôi không phạm tội cùng Chúa.
12. Hỡi Đức Giê-hô-va, đáng ngợi khen Ngài. Xin dạy tôi các luật lệ Ngài.
13. Tôi lấy môi thuật lại Các mạng lịnh miệng Chúa phán ra.
14. Tôi vui mừng về đường chứng cớ Chúa, Như thể vui mừng về của cải hiếm hiệm.
15. Tôi sẽ suy gẫm về giềng mối Chúa, Chăm xem đường lối của Chúa.
16. Tôi ưa thích luật lệ Chúa, Sẽ chẳng quên lời của Chúa.
17. Xin Chúa ban ơn lành cho tôi tớ Chúa, để tôi được sống; Thì tôi sẽ giữ lời của Chúa.
18. Xin Chúa mở mắt tôi, để tôi thấy Sự lạ lùng trong luật pháp của Chúa.
19. Tôi là người khách lạ trên đất, Xin chớ giấu tôi các điều răn Chúa.
20. Linh hồn tôi hao mòn vì mong ước Các mạng lịnh Chúa luôn luôn.
21. Chúa quở trách kẻ kiêu ngạo, Là kẻ đáng rủa sả, hay lầm lạc các điều răn Chúa.
22. Xin lăn khỏi tôi sự sỉ nhục và sự khinh dể; Vì tôi gìn giữ các chứng cớ của Chúa,
23. Vua chúa cũng ngồi nghị luận nghịch tôi; Song tôi tớ Chúa suy gẫm luật lệ Chúa.
24. Các chứng cớ Chúa là sự hỉ lạc tôi, Tức là những mưu sĩ tôi.
25. Linh hồn tôi dính vào bụi đất, Xin hãy khiến tôi sống lại tùy theo lời Chúa.
26. Tôi đã tỏ với Chúa đường lối tôi, Chúa bèn đáp lời tôi; Xin hãy dạy tôi các luật lệ Chúa.
27. Cầu Chúa làm cho tôi hiểu biết con đường giềng mối Chúa, Thì tôi sẽ suy gẫm các công việc lạ lùng của Chúa.
28. Linh hồn tôi, vì ưu sầu, chảy tuôn giọt lệ; Xin hãy làm cho tôi vững bền tùy theo lời Chúa.
29. Xin hãy dang xa tôi con đường dối trá, Làm ơn cho tôi biết luật pháp Chúa.
30. Tôi đã chọn con đường thành tín, Đặt mạng lịnh Chúa trước mặt tôi.
31. Tôi tríu mến các chứng cớ Chúa: Đức Giê-hô-va ôi! xin chớ cho tôi bị hổ thẹn.
32. Khi Chúa mở rộng lòng tôi, Thì tôi sẽ chạy theo con đường điều răn Chúa.
33. Hỡi Đức Giê-hô-va, xin chỉ dạy tôi con đường luật lệ Chúa, Thì tôi sẽ giữ lấy cho đến cuối cùng.
34. Xin hãy ban cho tôi sự thông sáng, thì tôi sẽ vâng theo luật pháp Chúa, Ắt sẽ hết lòng gìn giữ lấy.
35. Xin hãy khiến tôi đi trong đường điều răn Chúa, Vì tôi lấy làm vui vẻ tại đó.
36. Xin hãy khiến lòng tôi hướng về chứng cớ Chúa, Chớ đừng hướng về sự tham lam.
37. Xin xây mắt tôi khỏi xem những vật hư không, Làm tôi được sống trong các đường lối Chúa.
38. Xin Chúa làm ứng nghiệm lời Chúa cho kẻ tôi tớ Chúa, Tức là kẻ kính sợ Chúa.
39. Xin hãy cất khỏi tôi sự sỉ nhục mà tôi sợ sệt; Vì mạng lịnh Chúa là tốt lành.
40. Kìa, tôi mong ước các giềng mối Chúa; Xin hãy khiến tôi được sống trong sự công bình Chúa.
41. Hỡi Đức Giê-hô-va, nguyện sự nhân từ Ngài đến cùng tôi, Tức là sự cứu rỗi của Ngài tùy lời phán Ngài!
42. Vậy, tôi sẽ có thế đáp lại cùng kẻ làm sỉ nhục tôi; Vì tôi tin cậy nơi lời Chúa.
43. Xin chớ cất hết lời chân thật khỏi miệng tôi; Vì tôi trông cậy nơi mạng lịnh Chúa.
44. Tôi sẽ hằng gìn giữ luật pháp Chúa Cho đến đời đời vô cùng.
45. Tôi cũng sẽ bước đi thong dong, Vì đã tìm kiếm các giềng mối Chúa.
46. Cũng sẽ nói về chứng cớ Chúa trước mặt các vua, Không phải mất cỡ chút nào.
47. Tôi sẽ vui vẻ về điều răn Chúa, Là điều răn tôi yêu mến.
48. Tôi cũng sẽ giơ tay lên hướng về điều răn Chúa mà tôi yêu mến, Và suy gẫm các luật lệ Chúa.
49. Xin Chúa nhớ lại lời Chúa phán cho tôi tớ Chúa, Vì Chúa khiến tôi trông cậy.
50. Lời Chúa làm cho tôi được sống lại, Ấy là sự an ủi tôi trong cơn hoạn nạn.
51. Kẻ kiêu ngạo nhạo báng tôi nhiều quá, Nhưng tôi không xây bỏ luật pháp Chúa.
52. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi đã nhớ lại mạng lịnh Ngài khi xưa, Nên tôi được an ủi.
53. Nhân vì kẻ ác bỏ luật pháp Chúa. Cơn giận nóng nảy hãm bắt tôi.
54. Các luật lệ Chúa làm bài hát tôi Tại nhà tôi ở làm khách lạ.
55. Hỡi Đức Giê-hô-va, ban đêm tôi nhớ lại danh Ngài, Cũng gìn giữ luật pháp Ngài.
56. Phần tôi đã được, Là vì tôi có gìn giữ các giềng mối Chúa.
57. Đức Giê-hô-va là phần của tôi: Tôi đã nói sẽ gìn giữ lời Chúa.
58. Tôi đã hết lòng cầu khẩn ơn Chúa, Xin hãy thương xót tôi tùy lời của Chúa.
59. Tôi tư tưởng về đường lối tôi, Bèn trở bước tôi về chứng cớ Chúa.
60. Tôi lật đật, không chậm trễ, Mà gìn giữ các điều răn Chúa.
61. Dây kẻ ác đã vương vấn tôi; Nhưng tôi không quên luật pháp Chúa.
62. Nhân vì các mạng lịnh công bình của Chúa, Tôi sẽ thức-dậy giữa đêm đặng cảm tạ Chúa.
63. Tôi là bạn hữu của mọi người kính sợ Chúa, Và của mọi kẻ giữ theo các giềng mối Chúa.
64. Hỡi Đức Giê-hô-va, đất được đầy dẫy sự nhân từ Ngài; Xin hãy dạy tôi các luật lệ Ngài.
65. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã hậu đãi kẻ tôi tớ Ngài Tùy theo lời của Ngài.
66. Xin hãy dạy tôi lẽ phải và sự hiểu biết, Vì tôi tin các điều răn Chúa.
67. Trước khi chưa bị hoạn nạn, thì tôi lầm lạc; Nhưng bây giờ tôi gìn giữ lời Chúa.
68. Chúa là thiện và hay làm lành; Xin hãy dạy tôi các luật lệ Chúa.
69. Kẻ kiêu ngạo đã đặt lời nói dối hại tôi; Tôi sẽ hết lòng gìn giữ giềng mối của Chúa.
70. Lòng chúng nó dày như mỡ, Còn tôi ưa thích luật pháp của Chúa.
71. Tôi đã bị hoạn nạn thật lấy làm phải, Hầu cho học theo luật lệ của Chúa.
72. Luật pháp của miệng Chúa phán là quí cho tôi Hơn hằng ngàn đồng vàng và bạc.
73. Bàn tay Chúa đã làm tôi và nắn hình tôi; Xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi học điều răn Chúa.
74. Những người kính sợ Chúa thấy tôi sẽ vui vẻ; Vì tôi trông cậy lời của Chúa.
75. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi biết rằng sự xét đoán của Ngài là công bình, Và ấy là bởi sự thành tín mà Ngài làm cho tôi bị khổ nạn.
76. Chúa ơi, nguyện sự nhân từ Chúa an ủi tôi, Y như Chúa đã phán cùng kẻ tôi tớ Chúa.
77. Nguyện sự thương xót Chúa đến cùng tôi, để tôi được sống; Vì luật pháp Chúa là điều tôi ưa thích.
78. Nguyện kẻ kiêu ngạo bị hổ thẹn, vì chúng nó dùng sự giả dối mà đánh đổ tôi; Song tôi sẽ suy gẫm các giềng mối Chúa.
79. Nguyện những kẻ kính sợ Chúa Trở lại cùng tôi, thì họ sẽ biết chứng cớ của Chúa.
80. Nguyện lòng tôi được trọn vẹn trong các luật lệ Chúa, Hầu cho tôi không bị hổ thẹn.
81. Linh hồn tôi hao mòn vì mong ước sự cứu rỗi của Chúa; Song tôi trông cậy lời của Chúa.
82. Mắt tôi hao mòn vì mong ước lời Chúa; Tôi nói: Bao giờ Chúa sẽ an ủi tôi?
83. Vì tôi trở thành như bầu da bị khói đóng đen; Nhưng tôi không quên các luật lệ Chúa.
84. Số các ngày kẻ tôi tớ Chúa được bao nhiêu? Chừng nào Chúa sẽ đoán xét những kẻ bắt bớ tôi?
85. Kẻ kiêu ngạo đã đào hầm hại tôi, Là việc chẳng làm theo luật pháp của Chúa.
86. Các điều răn Chúa là thành tín; Thiên hạ dùng sự giả dối bắt bớ tôi; xin Chúa giúp đỡ tôi.
87. Thiếu điều chúng nó diệt tôi khỏi mặt đất; Nhưng tôi không lìa bỏ các giềng mối Chúa.
88. Xin hãy làm cho tôi được sống, tùy theo sự nhân từ Chúa, Thì tôi sẽ gìn giữ chứng cớ của miệng Chúa.
89. Hỡi Đức Giê-hô-va, lời Ngài được vững lập đời đời trên trời:
90. Sự thành tín Chúa còn đời nầy đến đời kia. Chúa đã lập trái đất, đất còn vững bền.
91. Tùy theo mạng lịnh Chúa, các điều đó còn vững đến ngày nay; Vì muôn vật đều hầu việc Chúa.
92. Nếu luật pháp Chúa không làm sự tôi ưa thích, Ắt tôi đã bị diệt vong trong cơn hoạn nạn.
93. Tôi chẳng hề quên giềng mối Chúa, Vì nhờ đó Chúa làm cho tôi được sống.
94. Tôi thuộc về Chúa, xin hãy cứu tôi; Vì tôi tìm kiếm các giềng mối Chúa.
95. Những kẻ ác rình giết tôi; Nhưng tôi chăm chỉ về các chứng cớ Chúa,
96. Tôi đã thấy sự cùng tận của mọi vật trọn vẹn; Song luật pháp Chúa lấy làm rộng thay.
97. Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Trọn ngày tôi suy gẫm luật pháp ấy.
98. Các điều răn Chúa làm cho tôi khôn ngoan hơn kẻ thù nghịch tôi, Vì các điều răn ấy ở cùng tôi luôn luôn.
99. Tôi có trí hiểu hơn hết thảy kẻ dạy tôi, Vì tôi suy gẫm các chứng cớ Chúa.
100. Tôi thông hiểu hơn kẻ già cả, Vì có gìn giữ các giềng mối Chúa.
101. Tôi giữ chân tôi khỏi mọi đường tà, Để gìn giữ lời của Chúa.
102. Tôi không xây bỏ mạng lịnh Chúa; Vì Chúa đã dạy dỗ tôi.
103. Lời Chúa ngọt họng tôi dường bao! Thật ngọt hơn mật ong trong miệng tôi!
104. Nhờ giềng mối Chúa tôi được sự thông sáng; Vì vậy, tôi ghét mọi đường giả dối.
105. Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, Ánh sáng cho đường lối tôi.
106. Tôi đã thề gìn giữ mạng lịnh công bình của Chúa, Và cũng đã làm theo sự thề ấy.
107. Đức Giê-hô-va ôi! tôi bị khổ nạn quá đỗi; Xin hãy làm cho tôi được sống tùy theo lời của Ngài.
108. Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhậm lễ lạc ý của miệng tôi, Và dạy dỗ tôi các mạng lịnh Ngài.
109. Mạng sống tôi hằng bị cơn nguy hiểm, Nhưng tôi không quên luật pháp Chúa.
110. Những kẻ ác gài bẫy hại tôi; Song tôi không lìa bỏ giềng mối Chúa.
111. Chứng cớ Chúa là cơ nghiệp tôi đến đời đời; Vì ấy là sự mừng rỡ của lòng tôi.
112. Tôi chuyên lòng làm theo luật lệ Chúa Luôn luôn, và cho đến cuối cùng.
113. Tôi ghét những kẻ hai lòng, Nhưng yêu mến luật pháp của Chúa.
114. Chúa là nơi ẩn náu và cái khiên của tôi; Tôi trông cậy nơi lời Chúa.
115. Hỡi kẻ làm ác, hãy lìa khỏi ta, Để ta giữ điều răn của Đức Chúa Trời ta.
116. Xin Chúa nâng đỡ tôi tùy lời của Chúa, hầu cho tôi được sống; Chớ để tôi bị hổ thẹn về sự trông cậy tôi.
117. Xin hãy nâng đỡ tôi, thì tôi sẽ được bình an vô sự, Cũng thường thường chăm chỉ về các luật lệ của Chúa.
118. Chúa từ chối những kẻ lầm lạc luật lệ Chúa; Vì mưu chước chúng nó chỉ là sự giả dối mà thôi.
119. Chúa cất bỏ kẻ ác khỏi thế gian như xác bã; Nhân đó tôi yêu mến các chứng cớ của Chúa.
120. Thịt tôi rỡn ốc vì sợ hãi Chúa, Cũng sợ sự đoán xét của Chúa.
121. Tôi đã làm điều ngay thẳng và công bình; Chớ phó tôi cho kẻ hà hiếp tôi.
122. Xin Chúa làm Đấng bảo lãnh cho kẻ tôi tớ Chúa được phước; Chớ để kẻ kiêu ngạo hà hiếp tôi.
123. Mắt tôi hao mòn vì mong ước sự cứu rỗi. Và lời công bình của Chúa.
124. Xin hãy đãi kẻ tôi tớ Chúa theo sự nhân từ Chúa, Và dạy tôi các luật lệ Chúa.
125. Tôi là kẻ tôi tớ Chúa; xin hãy ban cho tôi sự thông sáng, Để tôi hiểu biết các chứng cớ của Chúa.
126. Phải thì cho Đức Giê-hô-va làm, Vì loài người đã phế luật pháp Ngài.
127. Nhân đó tôi yêu mến điều răn Chúa Hơn vàng, thậm chí hơn vàng ròng.
128. Vì vậy, tôi xem các giềng mối Chúa về muôn vật là phải; Tôi ghét mọi đường giả dối.
129. Chứng cớ Chúa thật lạ lùng; Cho nên lòng tôi giữ lấy.
130. Sự bày giãi lời Chúa, soi sáng cho, Ban sự thông hiểu cho người thật thà.
131. Tôi mở miệng ra thở, Vì rất mong ước các điều răn Chúa.
132. Xin Chúa hãy xây lại cùng tôi, và thương xót tôi, Y như thói thường Chúa đối cùng người yêu mến danh Chúa.
133. Xin hãy làm cho bước tôi vững trong lời Chúa; Chớ để sự gian ác gì lấn lướt trên tôi.
134. Xin hãy chuộc tôi khỏi sự hà hiếp của loài người, Thì tôi sẽ giữ theo các giềng mối Chúa.
135. Xin hãy làm cho mặt Chúa soi sáng trên kẻ tôi tớ Chúa, Và dạy tôi các luật lệ Chúa.
136. Những suối lệ chảy từ mắt tôi, Bởi vì người ta không giữ luật pháp của Chúa.
137. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là công bình, Sự đoán xét của Ngài là ngay thẳng.
138. Chúa lấy sự công bình, sự thành tín, Mà truyền ra chứng cớ của Chúa.
139. Sự sốt sắng tiêu hao tôi, Vì kẻ hà hiếp tôi đã quên lời Chúa.
140. Lời Chúa rất là tinh sạch, Nên kẻ tôi tớ Chúa yêu mến lời ấy.
141. Tôi nhỏ hèn, bị khinh dể, Nhưng không quên các giềng mối Chúa.
142. Sự công bình Chúa là sự công bình đời đời, Luật pháp Chúa là chân thật.
143. Sự gian truân và sự sầu khổ áp hãm tôi; Dầu vậy, các điều răn Chúa là điều tôi ưa thích.
144. Chứng cớ Chúa là công bình đời đời. Xin hãy ban cho tôi sự thông hiểu, thì tôi sẽ được sống.
145. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi hết lòng kêu cầu Ngài; xin hãy đáp lại tôi; Tôi sẽ gìn giữ luật lệ Ngài.
146. Tôi đã kêu cầu Chúa; xin hãy cứu tôi, Thì tôi sẽ giữ các chứng cớ Chúa.
147. Tôi thức trước rạng đông và kêu cầu; Tôi trông cậy nơi lời Chúa.
148. Canh đêm chưa khuya, mắt tôi mở tỉnh ra, Đặng suy gẫm lời Chúa.
149. Hỡi Đức Giê-hô-va, theo sự nhân từ Ngài, xin hãy nghe tiếng tôi; Hãy khiến tôi được sống tùy mạng lịnh Ngài.
150. Những kẻ đeo đuổi sự dữ đến gần; Chúng nó cách xa luật pháp của Chúa.
151. Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài ở gần; Các điều răn Ngài là chân thật.
152. Cứ theo chứng cớ Chúa Tôi đã biết từ lâu rằng Chúa lập các điều răn ấy đến đời đời.
153. Xin hãy xem nỗi khổ nạn tôi, và giải cứu tôi; Vì tôi không quên luật pháp của Chúa.
154. Xin hãy binh vực duyên cớ tôi, và chuộc tôi; Cũng hãy khiến tôi được sống tùy theo lời Chúa.
155. Sự cứu rỗi cách xa kẻ ác, Vì chúng nó không tìm hỏi các luật lệ Chúa.
156. Đức Giê-hô-va ơi, sự thương xót Ngài rất lớn; Xin hãy khiến tôi được sống tùy theo luật lệ Ngài.
157. Kẻ bắt bớ và kẻ hà hiếp tôi thật nhiều lắm; Nhưng tôi không xây bỏ chứng cớ Chúa.
158. Tôi thấy kẻ gian tà, bèn gớm ghiếc chúng nó; Vì chúng nó không giữ lời Chúa.
159. Xin hãy xem tôi yêu mến giềng mối Chúa dường bao! Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy khiến tôi được sống tùy sự nhân từ Ngài.
160. Sự tổng cọng lời của Chúa là chân thật, Các mạng lịnh công bình của Chúa còn đời đời.
161. Những vua chúa đã bắt bớ tôi vô cớ, Song lòng tôi kính sợ lời Chúa.
162. Tôi vui vẻ về lời Chúa, Khác nào kẻ tìm được mồi lớn.
163. Tôi ghét, tôi ghê sự dối trá, Song tôi yêu mến luật pháp Chúa.
164. Mỗi ngày tôi ngợi khen Chúa bảy lần, Vì cớ mạng lịnh công bình của Chúa.
165. Phàm kẻ nào yêu mến luật pháp Chúa được bình yên lớn; Chẳng có sự gì gây cho họ sa ngã.
166. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi có trông cậy nơi sự cứu rỗi của Ngài. Và làm theo các điều răn Ngài.
167. Linh hồn tôi đã gìn giữ chứng cớ Chúa. Tôi yêu mến chứng cớ ấy nhiều lắm.
168. Tôi có gìn giữ giềng mối và chứng cớ Chúa, Bởi vì đường lối tôi đều ở trước mặt Chúa.
169. Hỡi Đức Giê-hô-va, nguyện tiếng kêu của tôi thấu đến Ngài. Xin hãy ban cho tôi sự thông sáng tùy theo lời Chúa.
170. Nguyện lời cầu khẩn tôi thấu đến trước mặt Chúa; Xin hãy giải cứu tôi tùy theo lời Chúa.
171. Nguyện môi miệng tôi đồn ra sự ngợi khen Chúa; Vì Chúa dạy tôi các luật lệ Chúa.
172. Nguyện lưỡi tôi hát xướng về lời Chúa; Vì hết thảy điều răn Chúa là công bình.
173. Nguyện tay Chúa sẵn giúp đỡ tôi; Vì tôi chọn các giềng mối Chúa.
174. Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi mong ước sự cứu rỗi của Chúa; Luật pháp Chúa là sự tôi ưa thích.
175. Nguyện linh hồn tôi được sống, thì nó sẽ ngợi khen Chúa; Nguyện mạng lịnh Chúa giúp đỡ tôi.
176. Tôi xiêu lạc khác nào con chiên mất: Xin hãy tìm kiếm kẻ tôi tớ Chúa, Vì tôi không quên điều răn của Chúa.
Bản Dịch 2011
Ca Tụng Luật Pháp của CHÚA
(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)
1 Phước cho những người đường lối mình được toàn vẹn,
Những người đi theo luật pháp CHÚA.
2 Phước cho những người vâng giữ chứng ngôn Ngài,
Những người tìm kiếm Ngài hết lòng.
3 Họ chẳng làm điều tội lỗi,
Nhưng đi trong đường lối Ngài.
4 Ngài đã ban truyền giới luật Ngài,
Ðể chúng con cẩn thận giữ lấy.
5 Ôi, ước chi đường lối con được vững lập
Trong việc vâng giữ những luật lệ Ngài!
6 Con sẽ không bị hổ thẹn,
Khi con chăm chú vào mọi điều răn Ngài.
7 Con sẽ cảm tạ Ngài với tấm lòng ngay thẳng
Khi con học các phán quyết công bình của Ngài.
8 Con sẽ vâng giữ các luật lệ Ngài;
Xin Ngài đừng bỏ con!
9 Làm thế nào người trẻ tuổi có thể giữ đường lối mình trong sạch?
Phải cẩn thận làm theo lời Chúa.
10 Con đã hết lòng tìm kiếm Ngài;
Xin đừng để con xa lạc các điều răn Ngài.
11 Con đã giấu lời Ngài trong lòng con,
Ðể con không phạm tội cùng Ngài.
12 Chúc tụng Ngài, CHÚA ôi;
Xin dạy con các luật lệ Ngài.
13 Con lấy môi con thuật lại
Mọi mạng lịnh miệng Ngài đã phán ra.
14 Con vui mừng làm theo các chứng ngôn Ngài,
Như vui mừng được hưởng vinh hoa phú quý.
15 Con sẽ suy gẫm các giới luật Ngài,
Và chăm chú đi theo các đường lối Ngài.
16 Con sẽ vui thích trong các luật lệ Ngài;
Con sẽ không quên lời Ngài.
17 Xin ban ân huệ dồi dào cho tôi tớ Ngài,
Ðể con sống và vâng giữ lời Ngài.
18 Xin mở mắt con,
Ðể con thấy những điều diệu kỳ trong luật pháp Ngài.
19 Con chỉ là một lữ khách trên đất;
Xin đừng giấu các điều răn Ngài khỏi con.
20 Linh hồn con luôn khao khát các mạng lịnh Ngài,
Ðến nỗi mỏi mòn rũ riệt.
21 Ngài quở trách những kẻ kiêu ngạo, những kẻ bị nguyền rủa,
Những kẻ lìa bỏ các điều răn Ngài.
22 Xin cất khỏi con nỗi hổ nhục và bị khinh khi,
Vì con giữ các chứng ngôn Ngài.
23 Dù những kẻ quyền thế ngồi lại bàn kế hoạch để chống con,
Tôi tớ Ngài vẫn quyết tâm suy gẫm các luật lệ Ngài.
24 Các chứng ngôn Ngài là niềm vui thích của con;
Các chứng ngôn ấy là những mưu sĩ của con.
25 Linh hồn con bám vào cát bụi;
Xin phục hồi sinh lực cho con theo như lời Ngài.
26 Con trình lên Ngài các đường lối con, và Ngài đã đáp lời con;
Xin dạy con các luật lệ Ngài.
27 Xin giúp con hiểu ý nghĩa các giới luật Ngài,
Ðể con suy gẫm những việc diệu kỳ của Ngài.
28 Linh hồn con buồn rã rượi vì trĩu nặng thảm sầu;
Xin làm cho con được mạnh mẽ theo như lời Ngài.
29 Xin đem con đường giả dối xa khỏi con,
Và dủ lòng thương ban cho con luật pháp Ngài.
30 Con đã chọn con đường chân thật;
Con quyết để mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt con.
31 Con bám chặt vào các chứng ngôn Ngài;
CHÚA ôi, xin đừng để con bị hổ thẹn.
32 Con sẽ chạy theo con đường các điều răn Ngài;
Vì Ngài khai tâm mở trí con.
33 CHÚA ôi, xin dạy con đường lối các luật lệ Ngài,
Ðể con vâng giữ nó đến cùng.
34 Xin ban cho con sự thông hiểu để con làm theo luật pháp Ngài,
Và vâng giữ nó hết lòng.
35 Xin dẫn con đi trong đường các điều răn Ngài,
Vì con ưa thích các điều răn ấy.
36 Xin khiến lòng con hướng về các chứng ngôn Ngài,
Chứ không phải chỉ lo kiếm lợi lộc cho mình.
37 Xin khiến mắt con quay khỏi những vinh hoa phù phiếm,
Và phục hồi sinh lực con trong đường lối Ngài.
38 Xin làm ứng nghiệm lời Ngài trên tôi tớ Ngài,
Người hằng kính sợ Ngài.
39 Xin đừng để con bị sỉ nhục, tức điều con hằng lo sợ,
Vì các mạng lịnh Ngài thật tốt đẹp.
40 Kìa, con khao khát giới luật Ngài biết bao!
Xin lấy đức công chính Ngài phục hồi sinh lực con.
41 CHÚA ôi, nguyện tình thương của Ngài đến với con;
Nguyện ơn cứu rỗi của Ngài đến với con y như lời hứa của Ngài,
42 Ðể con có thể đối đáp với kẻ sỉ nhục con,
Vì con tin cậy nơi lời Ngài.
43 Xin đừng cất lời chân thật khỏi miệng con,
Vì con đặt hy vọng vào mạng lịnh Ngài.
44 Con sẽ vâng giữ luật pháp Ngài luôn luôn,
Cho đến đời đời vô cùng.
45 Con sẽ bước đi tự do thoải mái,
Vì con tìm kiếm các giới luật Ngài.
46 Con sẽ nói ra chứng ngôn Ngài trước mặt các vua,
Và sẽ không bị hổ thẹn.
47 Con sẽ vui thích trong các điều răn Ngài,
Ðó là những gì con yêu mến.
48 Con đưa tay lên đón nhận các điều răn Ngài, đó là những gì con yêu mến,
Và con sẽ suy gẫm các luật lệ Ngài.
49 Xin nhớ lại những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài,
Vì nhờ những lời đó Ngài cho con niềm hy vọng.
50 Ðây là niềm an ủi của con khi con gặp khốn khó:
Lời Ngài có năng quyền làm cho con phục hồi sinh lực.
51 Những kẻ kiêu ngạo đã chế nhạo con quá đỗi,
Dầu vậy con vẫn không xây khỏi luật pháp Ngài.
52 CHÚA ôi, con nhớ lại các mạng lịnh Ngài đã phán từ xưa,
Và con được an ủi.
53 Con rất giận những kẻ gian ác,
Những kẻ đã lìa bỏ luật pháp Ngài.
54 Luật lệ Ngài là những bài ca của con,
Trong căn nhà của cuộc sống lữ hành.
55 CHÚA ôi, con nhớ đến danh Ngài giữa đêm trường vắng lặng,
Và nguyện với lòng mình quyết vâng giữ luật pháp Ngài.
56 Ðây là điều con quyết tâm thực hiện,
Đó là con vâng giữ giới luật Ngài.
57 CHÚA ôi, Ngài là phần cơ nghiệp của con;
Con nguyện với lòng rằng con sẽ luôn vâng giữ lời Ngài.
58 Con hết lòng cầu xin ơn huệ Ngài;
Xin khoan dung độ lượng với con, theo như lời Ngài.
59 Con xem xét lại các đường lối mình,
Và quay bước trở về với các chứng ngôn Ngài.
60 Con vội vàng và chẳng chút chậm trễ
Vâng giữ các điều răn Ngài.
61 Dù các dây kẻ ác trói buộc con,
Con vẫn không quên luật pháp Ngài.
62 Con trỗi dậy giữa đêm khuya để cảm tạ Ngài,
Vì các mạng lịnh công chính của Ngài.
63 Con là bạn của mọi người kính sợ Ngài,
Và của những người vâng giữ giới luật Ngài.
64 CHÚA ôi, khắp đất đầy dẫy tình thương của Ngài;
Xin dạy con các luật lệ Ngài.
65 CHÚA ôi, xin hậu đãi tôi tớ Ngài,
Theo như lời Ngài.
66 Xin dạy con tri thức và biết phán đoán chính xác,
Vì con tin vào các điều răn Ngài.
67 Trước kia con bị hoạn nạn vì con đã đi sai lạc,
Nhưng bây giờ con nhất quyết vâng theo lời Ngài.
68 Ngài rất tốt và hay ban phước;
Xin dạy con các luật lệ Ngài.
69 Dù những kẻ kiêu ngạo tung ra các tin đồn thất thiệt để hại con,
Con vẫn hết lòng vâng giữ các giới luật Ngài.
70 Lòng chúng vô cảm như đã bị mỡ bọc kín,
Nhưng con, con ưa thích luật pháp Ngài.
71 Con bị đau khổ, ấy cũng là điều tốt cho con,
Ðể con học biết các luật lệ Ngài.
72 Luật pháp của miệng Ngài
Thật quý cho con hơn cả ngàn lượng vàng và bạc.
73 Tay Ngài đã dựng nên con và nắn nên hình hài con;
Xin ban cho con trí tuệ để con học các điều răn Ngài.
74 Nguyện những người kính sợ Ngài thấy con và vui mừng,
Vì con đặt hy vọng vào lời Ngài.
75 CHÚA ôi, con biết các phán quyết của Ngài là đúng,
Vì đức thành tín của Ngài, Ngài phải để con bị đau khổ.
76 Ôi, nguyện tình thương của Ngài an ủi con,
Theo như lời Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài.
77 Nguyện ơn thương xót của Ngài đến với con, để con sống,
Vì luật pháp Ngài là niềm vui thích của con.
78 Nguyện những kẻ kiêu ngạo phải bị hổ thẹn,
Vì chúng đã dùng những lời nói dối để hại con;
Còn con, con sẽ chuyên tâm suy gẫm giới luật Ngài.
79 Nguyện những người kính sợ Ngài quay về ủng hộ con,
Tức những người am hiểu các chứng ngôn Ngài.
80 Nguyện lòng con được trọn vẹn đối với luật lệ Ngài,
Ðể con không bị hổ thẹn.
81 Linh hồn con mỏi mòn mong chờ ơn cứu rỗi của Ngài;
Con đặt hy vọng vào lời Ngài.
82 Mắt con hốc hác vì trông mong lời hứa của Ngài;
Con xin hỏi, “Khi nào Ngài mới an ủi con?”
83 Dù con trở nên như bầu da bị hun khói,
Con vẫn không quên luật lệ Ngài.
84 Những ngày của cuộc đời tôi tớ Ngài có là bao nhiêu?
Khi nào Ngài mới thi hành án phạt trên những kẻ bách hại con?
85 Những kẻ kiêu ngạo đã đào hầm để hại con,
Ấy là hành động chẳng đúng theo luật pháp Ngài.
86 Tất cả các điều răn Ngài đều đáng tin cậy hoàn toàn;
Xin giúp đỡ con vì bọn chúng bách hại con vô cớ.
87 Chỉ một chút nữa là chúng đã diệt con khỏi mặt đất rồi,
Dầu vậy con vẫn không quên giới luật Ngài.
88 Xin phục hồi sinh lực cho con theo tình thương của Ngài,
Ðể con gìn giữ các chứng ngôn của miệng Ngài.
89 Lời Ngài, CHÚA ôi,
Ðược vững lập đời đời trên trời.
90 Ðức thành tín Ngài trải qua mọi thế hệ;
Ngài đã thiết lập trái đất và nó cứ trường tồn.
91 Theo mạng lịnh Ngài chúng đứng vững đến ngày nay,
Vì mọi vật đều là tôi tớ Ngài.
92 Nếu lời Ngài chẳng là nguồn vui thích của con,
Chắc con đã chết mất trong cơn hoạn nạn của mình rồi.
93 Con sẽ không bao giờ quên các giới luật Ngài,
Vì nhờ chúng Ngài cho con phục hồi sinh lực.
94 Xin cứu con vì con thuộc về Ngài,
Vì con tìm kiếm các giới luật Ngài.
95 Kẻ ác tìm mọi cơ hội diệt trừ con,
Nhưng con chuyên tâm suy gẫm các chứng ngôn Ngài.
96 Những gì người ta cho là toàn hảo, con thấy đều hữu hạn,
Nhưng đối với điều răn Ngài, quả thật là vô hạn vô biên.
97 Ôi, con yêu mến luật pháp Ngài biết bao!
Ấy là điều con suy gẫm suốt ngày.
98 Các điều răn Ngài giúp con khôn ngoan hơn kẻ thù của mình,
Vì các điều răn ấy hằng ở với con.
99 Con được thông sáng hơn các giáo sư của con,
Vì con nghiền ngẫm các chứng ngôn Ngài.
100 Con được hiểu biết hơn những vị cao niên trưởng thượng,
Vì con vâng giữ các giới luật Ngài.
101 Con đã giữ chân con khỏi mọi đường lối gian tà,
Ðể con có thể vâng giữ lời Ngài.
102 Con không xây bỏ mạng lịnh Ngài,
Vì chính Ngài đã dạy dỗ con.
103 Lời Ngài ngọt ngào trong miệng con dường bao!
Thật ngọt hơn mật ong trong miệng con.
104 Nhờ giới luật Ngài con được thông sáng;
Vì vậy con ghét mọi đường lối dối gian.
105 Lời Ngài là ngọn đèn cho chân con,
Là ánh sáng cho đường lối con.
106 Con đã hứa nguyện và con sẽ giữ lời hứa nguyện ấy;
Con sẽ vâng giữ các mạng lịnh công chính của Ngài.
107 Con đã bị khốn đốn nặng nề;
CHÚA ôi, xin phục hồi sinh lực cho con, theo như lời Ngài.
108 CHÚA ôi, xin đoái nhậm của lễ cảm tạ của miệng con,
Xin dạy dỗ con các mạng lịnh Ngài.
109 Mạng sống con thường như chỉ mành treo chuông,
Dầu vậy con vẫn không quên luật pháp Ngài.
110 Kẻ ác đã gài bẫy để hại con,
Nhưng con không rời khỏi giới luật Ngài.
111 Chứng ngôn Ngài là di sản con sẽ thừa hưởng mãi mãi,
Vì chứng ngôn ấy là niềm vui của lòng con.
112 Con quyết tâm thi hành luật lệ Ngài mãi mãi,
Cho đến tận cùng.
113 Con ghét những kẻ hai lòng,
Nhưng con yêu mến luật pháp Ngài.
114 Ngài là nơi nương náu và thuẫn khiên của con;
Con đặt hy vọng nơi lời Ngài.
115 Hỡi những kẻ làm ác, hãy dang xa khỏi ta,
Ðể ta vâng giữ những điều răn của Ðức Chúa Trời ta.
116 Xin gìn giữ con theo lời Ngài để con được sống,
Và đừng để con bị hổ thẹn vì hy vọng của mình.
117 Xin gìn giữ con để con được an toàn,
Hầu con sẽ tôn kính luật lệ Ngài mãi mãi.
118 Ngài loại bỏ những kẻ lìa bỏ luật lệ Ngài,
Vì mánh lới của chúng sẽ trở nên vô ích.
119 Ngài dứt bỏ tất cả kẻ ác trên đất như đồ cặn bã;
Vì thế con yêu mến các chứng ngôn Ngài.
120 Cơ thể con run lên vì sợ Ngài;
Con rất sợ bị Ngài đem ra phán xét.
121 Con đã thực thi công lý và thi hành lẽ phải;
Xin đừng phó con cho những kẻ áp bức con.
122 Xin bảo đảm cho tôi tớ Ngài được bình an thịnh vượng;
Xin đừng để những kẻ kiêu căng có dịp đàn áp con.
123 Mắt con mỏi mòn trông đợi ơn cứu rỗi của Ngài,
Và cho lời công chính của Ngài được ứng nghiệm.
124 Xin đãi tôi tớ Ngài theo tình thương của Ngài;
Xin dạy dỗ con các luật lệ Ngài.
125 Con là tôi tớ Ngài, xin ban cho con sự thông sáng,
Ðể con thấu hiểu các chứng ngôn Ngài.
126 CHÚA ôi, đã đến lúc xin Ngài ra tay hành động,
Vì người ta phế bỏ luật pháp Ngài.
127 Vì thế con càng yêu mến các điều răn Ngài hơn vàng;
Thật vậy, hơn cả vàng ròng.
128 Con nhận thấy tất cả giới luật Ngài đều đúng,
Nên con ghét mọi đường lối dối gian.
129 Các chứng ngôn Ngài thật diệu kỳ;
Vì vậy linh hồn con quyết vâng giữ các chứng ngôn ấy.
130 Sự giải bày lời Ngài giúp người ta được khai tâm mở trí,
Và ban sự thông hiểu cho người chất phát thật thà.
131 Con há miệng ra và khát khao chờ đợi,
Vì con thèm khát các điều răn Ngài.
132 Xin quay lại với con và khoan dung độ lượng với con,
Như cách Ngài thường đối xử với những ai yêu mến danh Ngài.
133 Xin cho những bước chân con được vững lập trong lời Ngài,
Và đừng để tội lỗi cầm quyền trên con.
134 Xin cứu chuộc con khỏi sự áp bức của loài người,
Ðể con vâng giữ các giới luật Ngài.
135 Xin để thánh nhan Ngài tỏa rạng trên tôi tớ Ngài,
Và xin dạy con các luật lệ Ngài.
136 Nước mắt con tuôn chảy đầm đìa như suối lệ,
Vì người ta chẳng chịu gìn giữ luật pháp Ngài.
137 CHÚA ôi, Ngài thật công chính;
Sự phán xét của Ngài rất công minh.
138 Các chứng ngôn Ngài đã truyền thật rất đúng,
Và đáng tin cậy hoàn toàn.
139 Lòng nhiệt thành của con nung đốt con,
Vì những kẻ chống nghịch con quên lãng lời Ngài.
140 Lời Ngài thật tinh ròng,
Nên tôi tớ Ngài yêu mến lời ấy.
141 Tuy con nhỏ bé và bị coi thường,
Nhưng con không quên giới luật Ngài.
142 Ðức công chính Ngài là đức công chính đời đời;
Luật pháp Ngài chính là chân lý.
143 Gian truân và sầu khổ đã bao phủ con,
Nhưng con vẫn vui thích các điều răn Ngài.
144 Các chứng ngôn Ngài thật chân chính đến muôn đời;
Xin ban cho con sự thông hiểu để con có thể sống.
145 CHÚA ôi, con hết lòng kêu cầu, xin Ngài nhậm lời con;
Con sẽ vâng giữ các luật lệ Ngài.
146 Con kêu cầu Ngài, xin cứu con,
Ðể con vâng giữ các chứng ngôn Ngài.
147 Con thức dậy trước khi rạng đông để cầu xin giúp đỡ;
Con hy vọng nơi lời Ngài.
148 Mắt con thức giấc giữa các canh khuya,
Ðể con suy gẫm lời Ngài.
149 Xin nghe tiếng con theo tình thương Ngài;
CHÚA ôi, xin cho con phục hồi sinh lực bởi mạng lịnh Ngài.
150 Những kẻ đeo đuổi việc ác xông đến con;
Chúng là những kẻ xa cách luật pháp Ngài.
151 Nhưng Ngài ở gần, CHÚA ôi;
Tất cả điều răn Ngài đều là chân thật.
152 Từ xưa qua các chứng ngôn Ngài, con học được rằng,
Ngài lập nên chúng để chúng còn lại đời đời.
153 Cầu xin Ngài thấy nỗi đau khổ của con và giải cứu con,
Vì con không quên luật pháp Ngài.
154 Xin Ngài binh vực duyên cớ con và cứu chuộc con;
Xin phục hồi sinh lực cho con theo như lời Ngài.
155 Ơn cứu rỗi cách xa những kẻ gian ác,
Vì chúng chẳng tìm kiếm luật lệ Ngài.
156 CHÚA ôi, lòng thương xót của Ngài thật lớn lao thay;
Xin phục hồi sinh lực cho con theo như mạng lịnh Ngài.
157 Những kẻ bách hại con và thù nghịch con nhiều thay,
Dầu vậy con vẫn không xây bỏ chứng ngôn Ngài.
158 Con nhìn những kẻ phản bội và ghê tởm chúng,
Vì chúng không vâng giữ lời Ngài.
159 Xin Ngài đoái xem, con yêu mến giới luật Ngài biết bao.
CHÚA ôi, xin phục hồi sinh lực cho con theo tình thương của Ngài.
160 Tất cả lời Ngài đều chân thật,
Và mỗi mạng lịnh công chính của Ngài tồn tại đời đời.
161 Những kẻ có quyền bách hại con vô cớ,
Nhưng lòng con chỉ hết mực kính sợ lời Ngài mà thôi.
162 Con vui mừng về lời Ngài,
Như người tìm được kho chiến lợi phẩm lớn.
163 Con ghét và khinh sự giả dối,
Nhưng con yêu mến luật pháp Ngài.
164 Mỗi ngày con ca ngợi Ngài bảy lần,
Vì các mạng lịnh công chính của Ngài.
165 Những ai yêu mến luật pháp Ngài ắt được bình an thịnh vượng;
Chẳng điều gì làm cho họ vấp ngã.
166 CHÚA ôi, con trông mong ơn cứu rỗi của Ngài,
Và con làm theo các điều răn Ngài.
167 Linh hồn con vâng giữ các chứng ngôn Ngài;
Con yêu mến các chứng ngôn ấy vô vàn.
168 Con vâng giữ các giới luật và các chứng ngôn Ngài,
Vì các đường lối của con đều ở trước mặt Ngài.
169 CHÚA ôi, nguyện lời kêu cầu của con thấu đến trước mặt Ngài;
Xin ban cho con sự thông sáng theo như lời Ngài.
170 Nguyện lời cầu khẩn của con thấu đến trước thánh nhan Ngài;
Xin giải cứu con theo như lời Ngài.
171 Môi con thốt ra những lời ca ngợi,
Vì Ngài dạy dỗ con các luật lệ Ngài.
172 Lưỡi con ca tụng lời Ngài,
Vì tất cả điều răn Ngài đều đúng.
173 Xin tay Ngài sẵn sàng giúp đỡ con,
Vì con chọn vâng theo giới luật Ngài.
174 Con trông mong ơn cứu rỗi của Ngài, CHÚA ôi;
Luật pháp Ngài là niềm vui thích của con.
175 Nguyện linh hồn con được sống để ca ngợi Ngài;
Nguyện các mạng lịnh Ngài giúp đỡ con.
176 Con bơ vơ như con chiên lạc; xin tìm kiếm tôi tớ Ngài;
Vì con không quên các điều răn Ngài.
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
- Thi Thiên
- Thi Thiên: Chương 118
- Thi Thiên: Chương 120
- Bách Khoa Từ Điển Tin Lành