Gióp : Chương 30

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB18C030)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Nhưng bây giờ những người trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi, tức là những kẻ mà cha của chúng, tôi đã khước từ không cho ngồi chung với những con chó của tôi.

2. Thật vậy, khi sinh lực của họ không còn thì năng lực của tay họ có lợi ích gì cho tôi?

3. Hốc hác vì thiếu thốn và đói kém, họ chạy trốn vào đồng hoang, là nơi đã hoang vắng và tiêu điều.

4. Họ bứt lá có chất muối trong những bụi cây và rễ của cây bách xù để làm thức ăn.

5. Họ bị xua đuổi khỏi xã hội loài người, người ta tri hô họ như kẻ trộm.

6. Họ phải sống giữa những ghềnh đá trong thung lũng, trong những hang động ở dưới đất, và trong những hốc đá.

7. Họ len lỏi giữa những lùm cây, và sống chen chúc với nhau dưới những bụi gai.

8. Đúng vậy, họ là con cháu của những người khờ dại, họ đã bị xua đuổi khỏi xứ của con cháu của những người có danh tiếng.

9. Nhưng bây giờ, tôi là bài ca chế giễu của họ. Vâng! Tôi là đề tài cho họ gièm chê.

10. Họ ghê tởm tôi, xa lánh tôi, không ngại khạc nhổ vào mặt tôi.

11. Bởi vì Ngài đã làm chùng dây cung của tôi và làm cho tôi nhún nhường, cho nên họ chẳng cần kiềm chế trước mặt tôi.

12. Bên phải tôi, một đám vô lại nổi lên, chúng xô đẩy chân của tôi, chúng dựng lên những phương cách hủy hoại để chống lại tôi.

13. Chúng phá vỡ đường lối của tôi, xúc tiến việc hãm hại tôi mà không cần ai giúp đỡ.

14. Chúng kéo đến như vỡ bờ, cuồn cuộn tràn đến như một trận bão hủy diệt.

15. Nỗi kinh hoàng ập xuống trên tôi, danh dự của tôi bị gió cuốn đi, tài sản của tôi tan biến như mây.

16. Giờ đây, sức sống của tôi đã bị tuôn đổ cạn kiệt, những ngày khốn khổ bám chặt lấy tôi.

17. Ban đêm, tôi bị đau đớn thấu xương, cơn đau gặm nhấm tôi không ngừng nghỉ.

18. Bởi một quyền lực rất lớn, Ngài nắm lấy tôi, xiết chặt quanh cổ áo của tôi,

19. Ngài quăng tôi vào trong đống bùn, và tôi khác nào tro bụi.

20. Con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không đáp lời; con đứng dậy để Ngài thấy.

21. Ngài trở thành tàn nhẫn đối với con, dùng năng lực của tay Ngài để chống lại con.

22. Ngài nhấc con lên, cho con cưỡi gió, để làm cho con mềm mại.

23. Bởi vì con biết Ngài sẽ đem con vào cõi chết, để đi đến nơi đã ấn định cho mọi kẻ sống.

24. Tuy nhiên, có ai trong hoạn nạn mà không đưa tay ra xin cứu giúp, hoặc trong tai họa lại không kêu cứu.

25. Con đã chẳng từng khóc với người gặp khó khăn, lòng con chẳng từng sầu não với người nghèo khổ hay sao?

26. Nhưng khi con chờ phước hạnh thì tai họa xảy ra, con trông mong ánh sáng thì tối tăm lại đến.

27. Lòng con rối reng, không thể an nghỉ, cứ chất vấn con trong những ngày hoạn nạn.

28. Con bước đi trong tối tăm không có ánh mặt trời; giữa hội chúng con đứng lên kêu cứu.

29. Có phải con là anh em với những chó rừng, và đồng bạn với những con đà điểu.

30. Da của con đổi ra màu đen và trốc ra từng mảnh, xương cốt con cứ nóng sốt như bị đốt cháy.

31. Vì vậy đàn hạc của con cất tiếng bi ai, và cây sáo của con trỗi khúc thảm sầu.

Bản Dịch Ngữ Căn

1. Nhưng bây giờ những người trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi, tức là những kẻ mà cha của chúng, tôi đã khước từ, không cho ngồi chung với những con chó của tôi.

2. Thật vậy, năng lực của tay họ có lợi gì cho tôi khi sinh lực của họ không còn?

3. Hốc hác vì thiếu thốn và đói kém, họ chạy trốn vào đồng hoang, là nơi đã hoang vắng và tiêu điều.

4. Họ bứt lá có chất muối trong những bụi cây và rễ của cây bách xù để làm thức ăn.

5. Họ bị xua đuổi khỏi xã hội loài người, người ta tri hô họ như kẻ trộm.

6. Họ phải sống giữa những ghềnh đá trong thung lũng, trong những hang động ở dưới đất, và trong những hốc đá.

7. Họ len lỏi giữa những lùm cây, và sống chen chúc với nhau dưới những bụi gai.

8. Đúng vậy, họ là con cháu của những người khờ dại, họ đã bị xua đuổi khỏi xứ của con cháu của những người có danh tiếng.

9. Nhưng bây giờ, tôi là bài ca chế giễu của họ. Vâng! Tôi là đề tài cho họ gièm chê.

10. Họ ghê tởm tôi, xa lánh tôi, không ngại khạc nhổ vào mặt tôi.

11. Bởi vì Ngài đã làm chùng dây cung của tôi và làm cho tôi nhún nhường, cho nên họ chẳng cần kiềm chế trước mặt tôi.

12. Bên phải tôi, một đám vô lại nổi lên, chúng xô đẩy chân của tôi, chúng dựng lên những phương cách hủy hoại để chống lại tôi.

13. Chúng phá vỡ đường lối của tôi, xúc tiến việc hãm hại tôi mà không cần ai giúp đỡ.

14. Chúng kéo đến như vỡ bờ, cuồn cuộn tràn đến như một trận bão hủy diệt.

15. Nỗi kinh hoàng ập xuống trên tôi, danh dự của tôi bị gió cuốn đi, tài sản của tôi tan biến như mây.

16. Giờ đây, sức sống của tôi đã bị tuôn đổ cạn kiệt, những ngày khốn khổ bám chặt lấy tôi.

17. Ban đêm, xương cốt tôi trong tôi nhức nhối như bị đâm, cơn đau gặm nhấm tôi không ngừng nghỉ.

18. Bởi một quyền lực rất lớn, Ngài nắm lấy tôi, xiết chặt quanh cổ áo của tôi,

19. Ngài quăng tôi vào trong đống bùn, và tôi khác nào tro bụi.

20. Con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không đáp lời; con đứng dậy để Ngài thấy.

21. Ngài trở thành tàn nhẫn đối với con, dùng năng lực của tay Ngài để chống lại con.

22. Ngài nhấc con lên, cho con cưỡi gió, để làm cho con mềm mại.

23. Bởi vì con biết Ngài sẽ đem con vào cõi chết, để đi đến nơi đã ấn định cho mọi kẻ sống.

24. Tuy nhiên, có ai trong hoạn nạn mà không đưa tay ra xin cứu giúp, hoặc trong tai họa lại không kêu cứu.

25. Con đã chẳng từng khóc với người gặp khó khăn, lòng con chẳng từng sầu não với người nghèo khổ hay sao?

26. Nhưng khi con chờ phước hạnh thì tai họa xảy ra, con trông mong ánh sáng thì tối tăm lại đến.

27. Lòng con rối reng, không thể an nghỉ, cứ chất vấn con trong những ngày hoạn nạn.

28. Con bước đi trong tối tăm không có ánh mặt trời; giữa hội chúng con đứng lên kêu cứu.

29. Có phải con là anh em với những chó rừng, và đồng bạn với những con đà điểu.

30. Da của con đổi ra màu đen và trốc ra từng mảnh, xương cốt con cứ nóng sốt như bị đốt cháy.

31. Vì vậy đàn hạc của con cất tiếng bi ai, và cây sáo của con trỗi khúc thảm sầu.

Bản Dịch 1925

1. Song bây giờ, kẻ trẻ tuổi hơn tôi nhạo báng tôi, Mà cha họ tôi đã khinh, chẳng khứng để Chung với chó của bầy chiên tôi.
2. Sức mạnh của họ đã hư bại rồi; Vậy, sức lực tay họ dùng làm ích gì cho tôi?
3. Chúng ốm tong vì bị đói kém thiếu thốn, đi gậm cạp đất khô hóc, Từ lâu đã bỏ hoang vắng vẻ.
4. Chúng hái rau sam biển trong bụi cây, Rễ cây giêng giếng làm vật thực cho họ.
5. Chúng bị đuổi đi khỏi giữa loài người; Người ta kêu la chúng như kêu la kẻ trộm.
6. Chúng phải ở trong trũng gớm ghê, Trong hang đất và giữa các hòn đá.
7. Chúng tru thét giữa bụi cây, Nằm lộn lạo nhau dưới các lùm gai.
8. Chúng là con cái kẻ ngu xuẩn, cha họ chẳng tuổi tên, Họ bị đuổi ra khỏi xứ.
9. Còn bây giờ, tôi trở nên lời ca hát của họ, Làm đề cho chuyện trò của họ.
10. Họ gớm ghiếc tôi, xa lánh tôi, Không kiêng nhổ khạc nơi mặt tôi.
11. Bởi vì Đức Chúa Trời đã làm dùn dây cung tôi, và sỉ nhục tôi. Chúng ném hàm khớp khỏi trước mặt tôi.
12. Cái nố lu la nầy dấy lên nơi tay hữu tôi; Chúng xô đẩy chân tôi, Sửa soạn cho tôi con đường hiểm độc của chúng.
13. Chúng phá hủy đường lối tôi, Giúp vào việc tàn hại tôi; Song chẳng có ai đến tiếp cứu chúng.
14. Chúng do nơi hư lũng lớn mà đến, Xông vào tôi giữa sự đồi tàn.
15. Các sự kinh khủng hãm áp tôi, Đuổi theo sự sang trọng tôi khác nào gió mạnh, Và sự phước hạnh tôi đã qua như đám mây.
16. Bây giờ, linh hồn tôi tan ra trong mình tôi; Các ngày gian nan đã hãm bắt tôi,
17. Đêm soi xương cốt tôi làm nó rời ra khỏi tôi, Đau đớn vẫn cắn rỉa tôi, không ngưng nghỉ chút nào.
18. Vì cớ năng lực lớn của Đức Chúa Trời, áo ngoài tôi hư nát; Năng lực ấy riết khít tôi lại như cổ áo tôi.
19. Đức Chúa Trời có ném tôi xuống bùn, Tôi trở nên giống như bụi và tro.
20. Tôi kêu la cùng Chúa, song Chúa chẳng đáp lời; Tôi đứng tại đó, và Chúa chỉ ngó xem tôi.
21. Chúa trở nên dữ tợn đối với tôi, Lấy năng lực tay Chúa mà rượt đuổi tôi.
22. Chúa cất tôi lên trên cánh gió, Khiến nó đem tôi đi, và tiêu diệt tôi giữa trận bão.
23. Vì tôi biết rằng Chúa sẽ dẫn tôi đến chốn sự chết, Là nơi hò hẹn của các người sống.
24. Song trong khi người nào bị tàn hại, họ há chẳng giơ tay ra sao? Hoặc đang cơn tai nạn, họ há không cất tiếng kêu la ư?
25. Chớ thì tôi không khóc kẻ bị thời thế khó khăn sao? Lòng tôi há chẳng buồn thảm vì kẻ nghèo khổ sao?
26. Tôi đợi chờ phước hạnh, tai họa bèn xảy đến; Tôi trông cậy ánh sáng, tăm tối lại tới cho.
27. Lòng tôi trằn trọc không an nghỉ; Các ngày gian nan xông áp vào tôi.
28. Tôi đi mình mảy bằm đen, nhưng chẳng phải bị nắng ăn; Tôi chổi dậy giữa hội chúng và kêu cầu tiếp cứu.
29. Tôi bèn trở thành anh em của chó rừng, Và bầu bạn của con đà điểu.
30. Da tôi thành đen và rơi ra khỏi mình, Xương cốt tôi bị nóng cháy đi.
31. Vì cớ ấy, tiếng đàn cầm tôi trở nên tiếng ai bi, Và đàn sắt tôi chỉ ra tiếng thảm sầu.

Bản Dịch 2011

Gióp Lại Tiếp Tục Binh Vực Ông

1 Nhưng bây giờ những người trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi,

Những người trẻ mà cha của họ tôi coi thường và đặt làm việc chung với đàn chó chăn bầy của tôi.

2 Phải, sức lực của đôi tay chúng còn có ích gì cho tôi,

Khi sự cường tráng của chúng không còn nữa chăng?

3 Chúng gầy guộc vì nạn đói;

Chúng phải kiếm ăn trong đồng không mông quạnh,

Nơi trước kia chỉ là chỗ hoang vắng tiêu điều.

4 Chúng phải bứt lá có chất muối trong bụi để ăn;

Chúng phải ăn rễ cây bách xù để sống.

5 Chúng bị đuổi đi khỏi xã hội loài người;

Người ta la hét xua đuổi chúng như đuổi quân trộm cắp.

6 Chúng bị buộc phải sống ở các gành đá trong thung lũng,

Trong các hang hố dưới đất và trong các hốc đá.

7 Chúng la lối nhau om sòm trong các bụi rậm;

Chúng sống chen chúc với nhau dưới các lùm gai.

8 Chúng là con cái của những kẻ dại dột, những kẻ không ra gì;

Chúng đã bị đuổi xua ra khỏi xứ.

9 Nhưng bây giờ tôi đã trở thành đề tài cho chúng nhạo báng,

Làm đầu đề cho chúng mỉa mai.

10 Chúng ghê tởm tôi, chúng lánh xa tôi;

Chúng không ngần ngại phun nước bọt vào mặt tôi.

11 Bởi vì Ngài đã làm cho dây cung của tôi bị chùng và khiến tôi bị tổn thương,

Nên chúng chẳng còn kiêng nể tôi nữa.

12 Ðám người trẻ ấy nổi lên chống lại tôi ở bên phải;

Chúng xô đẩy chân tôi;

Chúng đắp mô gài bẫy trên đường tôi đi, để tôi bị tiêu diệt.

13 Chúng phá hủy đường lối tôi;

Chúng làm mọi cách để tôi sớm bị hại;

Chẳng có ai kiềm chế chúng cả.

14 Chúng ập đến như quân thù xông qua một lỗ thủng lớn nơi tường thành;

Trong lúc tôi bị hoạn nạn, chúng tràn vào tấn công ào ạt.

15 Các cơn kinh hãi ập xuống tôi;

Danh dự tôi bị chúng đùa đi như gió;

Tài sản tôi bị tan biến như mây gặp phải cuồng phong.

16 Bây giờ sức sống trong tôi tan đi cách mau chóng;

Những ngày khốn khổ cứ bám chặt lấy tôi.

17 Ban đêm xương tôi nhức nhối như bị đâm vào cơ thể;

Da thịt tôi đau đớn không ngừng.

18 Ngài dùng sức mạnh túm lấy áo tôi;

Ngài siết cổ tôi ngay ở cổ áo.

19 Ngài ném tôi vào vũng bùn;

Tôi trở nên như bụi như tro. 

20 Con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không đáp lời con;

Con đứng dậy để Ngài thấy, nhưng Ngài nhìn rồi làm ngơ.

21 Ngài đối với con quá tàn nhẫn;

Ngài dùng cánh tay quyền năng của Ngài bách hại con.

22 Ngài nhấc bổng con lên và tung con theo luồng gió;

Ngài làm cho tài sản con tan biến như bị bão tố thổi đi.

23 Vì con biết Ngài sẽ đem con vào cõi chết;

Ði đến nơi đã định cho mọi kẻ sống trên đời.

24 Tuy nhiên há chẳng phải trong lúc bị nguy khốn người ta mới đưa tay ra xin cứu giúp?

Hoặc trong lúc gặp hiểm nguy họ mới cất tiếng van nài?

25 Há chẳng phải con đã khóc cho người lầm than vất vả?

Hoặc linh hồn con buồn bã cho người gặp phải cảnh khó nghèo?

26 Khi con đợi phước hạnh, tai họa từ đâu lại ập đến;

Khi con chờ ánh sáng, bóng tối cứ lù lù hiện ra.

27 Ruột gan con rối bời, và con không thể nào an tâm;

Những ngày khốn khó đã ập đến trên con.

28 Con đi tới đi lui trong đêm tối, không chút ánh sáng mặt trời;

Con đứng giữa đại hội và kêu cầu sự giúp đỡ.

29 Con trở thành anh em của chó rừng,

Thành bạn bè của đà điểu.

30 Da con đổi ra màu đen và trốc ra từng mảnh;

Xương cốt con cứ nóng sốt liên hồi.

31 Tiếng hạc cầm của con đã thành khúc nhạc buồn ảo não;

Tiếng sáo của con đã trỗi lên âm điệu bi thương.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành