Ê-xơ-tê: Chương 8

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB17C008)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

Mạc-đô-chê được thăng tiến

1. Trong ngày hôm đó, vua A-suê-ru đã ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê nhà của Ha-man là kẻ thù của dân Do Thái, và Mạc-đô-chê được chầu trước mặt vua bởi vì Ê-xơ-tê đã trình cho vua mối liên hệ của ông với nàng. 2. Vì vậy, vua đã cởi chiếc nhẫn mà vua đã lấy từ Ha-man, và trao nó cho Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê chỉ định Mạc-đô-chê quản trị nhà của Ha-man.

Chiếu chỉ bảo vệ dân Do Thái

3. Ê-xơ-tê lại tâu cùng vua, bà phủ phục dưới chân vua khóc lóc và cầu xin vua đảo ngược kế hoạch độc ác của Ha-man, người A-gát, đã hoạch định để chống lại dân Do Thái.

4. Vua đưa vương trượng vàng về phía Ê-xơ-tê. Ê-xơ-tê trỗi dậy, đứng trước mặt vua, 5. và nói: Nếu đẹp ý của bệ hạ, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu bệ hạ thấy điều nầy đúng, và nếu thiếp đẹp mắt bệ hạ, xin ban chiếu chỉ hủy bỏ các văn thư do Ha-man, con trai của Ham-mê-đa-tha, người A-gát, đã hoạch định và viết ra để tiêu diệt dân Do Thái tại tất cả các tỉnh của bệ hạ. 6. Bởi vì nỡ nào thiếp nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc của thiếp? Nỡ nào thiếp chứng kiến cảnh đồng bào của mình bị hủy diệt?

7. Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Do Thái, rằng: Nầy, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo cổ hắn trên cây mộc hình bởi vì hắn đã ra tay làm hại người Do Thái. 8. Các khanh hãy nhân danh trẫm viết điều gì vừa ý mình liên quan đến người Do Thái, rồi lấy chiếc nhẫn của trẫm mà đóng ấn bởi vì chiếu chỉ nào nhân danh trẫm viết ra và đã được đóng ấn bằng chiếc nhẫn của trẫm thì không ai có thể bãi bỏ được.

9. Vì vậy, các ký lục của vua đã được triệu tập vào ngày hôm ấy, tức là ngày hai mươi ba tháng ba, là tháng Si-van, để viết theo lệnh của Mạc-đô-chê gởi cho dân Do Thái, và cho các tổng trấn, các thống đốc, các lãnh đạo của các tỉnh từ Ấn Độ cho đến Ê-thi-ô-pi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào dùng chữ viết của tỉnh đó, dân nào dùng ngôn ngữ của dân đó, và cho dân Do Thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. 10. Ông đã viết nhân danh vua A-suê-ru, và đóng ấn bằng chiếc nhẫn của vua, rồi các văn thư được lính trạm đem đi, họ cưỡi ngựa phi mã, là giống ngựa chạy rất nhanh của hoàng gia.

11. Trong những văn thư này, vua cho phép người Do Thái trong mọi tỉnh thành được tập hợp lại với nhau để bảo vệ sinh mạng của mình, hủy diệt, giết chết, diệt trừ bất kể dân nào hay tỉnh nào dùng vũ lực tấn công họ, phụ nữ hay trẻ em của họ, hay nhằm cướp đoạt tài sản của họ, 12. và hiệu lực chỉ một ngày trong tất cả các tỉnh của vua A-suê-ru là ngày mười ba tháng mười hai, là tháng A-đa. 13. Bản sao của văn bản được ban hành như là một chiếu chỉ, và được công bố trong mỗi tỉnh cho tất cả các dân tộc, để người Do Thái sẵn sàng báo thù cho mình trong ngày này. 14. Các lính trạm cưỡi ngựa phi mã vội vã ra đi theo mệnh lệnh khẩn cấp. Chiếu chỉ cũng được ban hành tại kinh đô Su-sơ.

15. Mạc-đô-chê từ hoàng cung đi ra, mặc áo triều xanh và trắng của hoàng tộc, đội vương miện lớn bằng vàng, và trang phục bằng vải mịn màu tím. Thành phố Su-sơ reo hò mừng rỡ.

16. Dân Do Thái đã có được ánh sáng, hân hoan, vui mừng, và kính trọng. 17. Trong mỗi tỉnh mỗi thành, nơi nào mệnh lệnh và chiếu chỉ của vua truyền đến thì nơi đó dân Do Thái có sự vui mừng và hân hoan, yến tiệc và lễ lộc. Có những người có địa vị thuộc các dân tộc khác ở trong xứ cũng theo Do Thái giáo, bởi vì nỗi sợ hãi dân Do Thái đã giáng trên họ.

Bản Dịch Đại Chúng

Mạc-đô-chê được thăng tiến

Trong ngày hôm đó, vua A-suê-ru đã ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê nhà của Ha-man là kẻ thù của dân Do Thái, và Mạc-đô-chê được chầu trước mặt vua bởi vì Ê-xơ-tê đã trình cho vua mối liên hệ của ông với nàng. Vì vậy, vua đã cởi chiếc nhẫn mà vua đã lấy từ Ha-man, và trao nó cho Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê chỉ định Mạc-đô-chê quản trị nhà của Ha-man.

Chiếu chỉ bảo vệ dân Do Thái

Ê-xơ-tê lại tâu cùng vua, bà phủ phục dưới chân vua khóc lóc và cầu xin vua đảo ngược kế hoạch độc ác của Ha-man, người A-gát, đã hoạch định để chống lại dân Do Thái.

Vua đưa vương trượng vàng về phía Ê-xơ-tê. Ê-xơ-tê trỗi dậy, đứng trước mặt vua, và nói: “Nếu đẹp ý của bệ hạ, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu bệ hạ thấy điều nầy đúng, và nếu thiếp đẹp mắt bệ hạ, xin ban chiếu chỉ hủy bỏ các văn thư do Ha-man, con trai của Ham-mê-đa-tha, người A-gát, đã hoạch định và viết ra để tiêu diệt dân Do Thái tại tất cả các tỉnh của bệ hạ. Bởi vì nỡ nào thiếp nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc của thiếp? Nỡ nào thiếp chứng kiến cảnh đồng bào của mình bị hủy diệt?”

Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Do Thái, rằng: “Nầy, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo cổ hắn trên cây mộc hình bởi vì hắn đã ra tay làm hại người Do Thái. Các khanh hãy nhân danh trẫm viết điều gì vừa ý mình liên quan đến người Do Thái, rồi lấy chiếc nhẫn của trẫm mà đóng ấn bởi vì chiếu chỉ nào nhân danh trẫm viết ra và đã được đóng ấn bằng chiếc nhẫn của trẫm thì không ai có thể bãi bỏ được.”

Vì vậy, các ký lục của vua đã được triệu tập vào ngày hôm ấy, tức là ngày hai mươi ba tháng ba, là tháng Si-van, để viết theo lệnh của Mạc-đô-chê gởi cho dân Do Thái, và cho các tổng trấn, các thống đốc, các lãnh đạo của các tỉnh từ Ấn Độ cho đến Ê-thi-ô-pi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào dùng chữ viết của tỉnh đó, dân nào dùng ngôn ngữ của dân đó, và cho dân Do Thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. Ông đã viết nhân danh vua A-suê-ru, và đóng ấn bằng chiếc nhẫn của vua; rồi các văn thư được lính trạm đem đi, họ cưỡi ngựa phi mã, là giống ngựa chạy rất nhanh của hoàng gia.

Trong những văn thư này, vua cho phép người Do Thái trong mọi tỉnh thành được tập hợp lại với nhau để bảo vệ sinh mạng của mình, hủy diệt, giết chết, diệt trừ bất kể dân nào hay tỉnh nào dùng vũ lực tấn công họ, phụ nữ hay trẻ em của họ, hay nhằm cướp đoạt tài sản của họ, và hiệu lực chỉ một ngày trong tất cả các tỉnh của vua A-suê-ru là ngày mười ba tháng mười hai, là tháng A-đa. Bản sao của văn bản được ban hành như là một chiếu chỉ, và được công bố trong mỗi tỉnh cho tất cả các dân tộc, để người Do Thái sẵn sàng báo thù cho mình trong ngày này. Các lính trạm cưỡi ngựa phi mã vội vã ra đi theo mệnh lệnh khẩn cấp. Chiếu chỉ cũng được ban hành tại kinh đô Su-sơ.

Mạc-đô-chê từ hoàng cung đi ra, mặc áo triều xanh và trắng của hoàng tộc, đội vương miện lớn bằng vàng, và trang phục bằng vải mịn màu tím. Thành phố Su-sơ reo hò mừng rỡ.

Dân Do Thái đã có được ánh sáng, hân hoan, vui mừng, và kính trọng. Trong mỗi tỉnh mỗi thành, nơi nào mệnh lệnh và chiếu chỉ của vua truyền đến thì nơi đó dân Do Thái có sự vui mừng và hân hoan, yến tiệc và lễ lộc. Có những người có địa vị thuộc các dân tộc khác ở trong xứ cũng theo Do Thái giáo, bởi vì nỗi sợ hãi dân Do Thái đã giáng trên họ.

Bản Dịch Ngữ Căn

1. Vào ngày đó, vua A-suê-ru ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê nhà của Ha-man là kẻ thù của dân Do Thái, và Mạc-đô-chê được chầu trước mặt vua bởi vì Ê-xơ-tê đã trình cho vua mối liên hệ của ông với nàng. 2. Vì vậy, vua đã cởi chiếc nhẫn mà vua đã lấy từ Ha-man, và trao nó cho Mạc-đô-chê. Ê-xơ-tê chỉ định Mạc-đô-chê quản trị nhà của Ha-man.

3. Ê-xơ-tê lại tâu cùng vua, phủ phục dưới chân vua khóc lóc và cầu xin vua đảo ngược kế hoạch độc ác của Ha-man, người A-gát, đã hoạch định để chống lại dân Do Thái.

4. Vua đưa vương trượng vàng về phía Ê-xơ-tê; Ê-xơ-tê trỗi dậy, đứng trước mặt vua, 5. và nói: “Nếu đẹp ý bệ hạ, nếu thiếp được ơn trước mặt bệ hạ, nếu bệ hạ thấy điều nầy đúng, và nếu thiếp đẹp mắt bệ hạ, xin ban chiếu chỉ hủy bỏ các văn thư do Ha-man, con trai của Ham-mê-đa-tha, người A-gát, đã hoạch định và viết ra để tiêu diệt dân Do Thái trong tất cả các tỉnh của bệ hạ. 6. Bởi vì nỡ nào thiếp nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc của thiếp? Nỡ nào thiếp chứng kiến cảnh đồng bào của mình bị hủy diệt?”

7. Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Do Thái, rằng: “Nầy, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo cổ hắn trên cây mộc hình bởi vì hắn đã ra tay làm hại người Do Thái. 8. Các khanh hãy nhân danh trẫm viết điều gì vừa ý mình liên quan đến người Do Thái, rồi lấy chiếc nhẫn của trẫm mà đóng ấn bởi vì chiếu chỉ nào nhân danh trẫm viết ra và được đóng ấn bằng chiếc nhẫn của trẫm thì không ai có thể bãi bỏ được.”

9. Vì vậy, các ký lục của vua đã được triệu tập vào ngày hôm ấy, tức là ngày hai mươi ba tháng ba, là tháng Si-van, để viết theo lệnh của Mạc-đô-chê gởi cho dân Do Thái, và các tổng trấn, các thống đốc, các lãnh đạo của các tỉnh từ Ấn Độ cho đến Ê-thi-ô-pi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào dùng chữ viết của tỉnh đó, dân nào dùng ngôn ngữ của dân đó, và cho người Do Thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. 10. Ông đã viết nhân danh vua A-suê-ru, và đóng ấn bằng chiếc nhẫn của vua; rồi các văn thư được lính trạm đem đi, họ cưỡi ngựa phi mã, là giống ngựa chạy rất nhanh của hoàng gia.

11. Trong những văn thư này, vua cho phép người Do Thái trong mọi tỉnh thành được tập hợp lại với nhau để bảo vệ sinh mạng của mình, hủy diệt, giết chết, diệt trừ bất kể dân nào hay tỉnh nào dùng vũ lực tấn công họ, phụ nữ hay trẻ em của họ, hay nhằm cướp đoạt tài sản của họ, 12. và hiệu lực chỉ một ngày trong tất cả các tỉnh của vua A-suê-ru là ngày mười ba tháng mười hai, là tháng A-đa. 13. Bản sao của văn bản được ban hành như một chiếu chỉ, và được công bố trong mỗi tỉnh cho tất cả các dân tộc để người Do Thái sẵn sàng báo thù cho họ trong ngày này. 14. Các lính trạm cưỡi ngựa phi mã vội vã ra đi theo mệnh lệnh khẩn cấp. Chiếu chỉ cũng được ban hành tại kinh đô Su-sơ.

15. Mạc-đô-chê từ hoàng cung đi ra, mặc áo triều xanh và trắng của hoàng tộc, đội vương miện lớn bằng vàng, và trang phục bằng vải mịn màu tím. Thành phố Su-sơ reo hò mừng rỡ. 16. Người Do Thái đã có được ánh sáng, hân hoan, vui mừng, và kính trọng. 17. Trong mỗi tỉnh mỗi thành, nơi nào mệnh lệnh và chiếu chỉ của vua truyền đến thì nơi đó dân Do Thái có sự vui mừng và hân hoan, yến tiệc và lễ lộc. Có nhiều người tốt thuộc các dân tộc khác ở trong xứ cũng theo Do Thái giáo, bởi vì nỗi sợ hãi người Do Thái đã giáng trên họ.

Bản Dịch 1925

1. Ngày đó, vua A-suê-ru ban cho hoàng hậu Ê-xơ-tê cái nhà của Ha-man, kẻ ức hiếp dân Giu-đa. Còn Mạc-đô-chê đi vào trước mặt vua; vì bà Ê-xơ-tê đã bày tỏ người là thân thuộc mình. 2. Vua cổi chiếc nhẫn mà người đã lấy nơi Ha-man và ban cho Mạc-đô-chê. Bà Ê-xơ-tê đặt Mạc-đô-chê trên nhà Ha-man.

3. Bà Ê-xơ-tê lại còn nói trước mặt vua, và phục xuống dưới chân người mà khóc lóc, cầu xin vua diệt mưu ác mà Ha-man, người A-gát, đã toan ý hại dân Giu-đa. 4. Vua đưa cây phủ việt vàng ra cho bà Ê-xơ-tê. Đoạn, bà chổi dậy và đứng trước mặt vua, 5. mà rằng: Nếu vừa ý vua, nếu tôi được ơn trước mặt vua, nếu vua lấy việc làm tiện ích, và tôi được đẹp mắt vua, thì xin vua hãy hạ chiếu đặng bãi các thơ mưu mẹo của Ha-man, con trai Ham-mê-đa-tha, người A-gát, viết đặng truyền giết những dân Giu-đa ở trong các tỉnh của vua. 6. Vì nỡ nào tôi thấy được tai nạn xảy đến cho dân tộc tôi, và lòng nào nỡ xem được sự hủy diệt dòng dõi tôi? 7. Vua A-suê-ru nói với hoàng hậu Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê, người Giu-đa, rằng: Nầy ta đã ban cho bà Ê-xơ-tê nhà của Ha-man, còn hắn, người ta đã xử treo mộc hình, bởi vì hắn đã tra tay ra làm hại người Giu-đa. 8. Vậy, hai ngươi cũng hãy nhân danh vua mà viết về dân Giu-đa điều gì vừa ý hai ngươi, rồi lấy chiếc nhẫn của vua mà ấn dấu. Vì một tờ chiếu chỉ nào viết nhân danh vua và ấn dấu với chiếc nhẫn của vua không thể bãi được.

9. Bấy giờ, nhằm tháng ba, là tháng Si-van, ngày hai mươi ba; những thầy thơ ký được gọi vào, họ y theo mọi điều Mạc-đô-chê dạy biểu mà viết cho dân Giu-đa, các quan trấn thủ, các quan cai quản và những đầu trưởng của các tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-bi, tức một trăm hai mươi bảy tỉnh, viết cho tỉnh nào dùng chữ nấy, cho dân tộc nào theo thổ âm nấy, và cho dân Giu-đa, thì theo chữ và tiếng của họ. 10. Mạc-đô-chê viết nhân danh vua A-suê-ru và ấn dấu bằng chiếc nhẫn vua; rồi sai lính trạm đem thơ đi cỡi ngựa hăng và ngựa nòi, bởi ngựa để giống sanh ra. 11. Chiếu chỉ ấy tỏ rằng vua ban phép cho dân Giu-đa ở trong các tỉnh các thành của nước A-suê-ru hiệp lại 12. nội trong một ngày, là ngày mười ba tháng mười hai, tức là tháng A-đa, đặng binh vực sanh mạng mình, tuyệt diệt, đánh giết, và làm cho hư mất quyền năng của dân cừu địch toan hãm hiếp mình, vợ và con cái mình, cùng cho phép đoạt lấy tài sản của chúng nó.

13. Để cho chiếu chỉ được công bố trong mỗi tỉnh, một tờ sao lục chiếu đem rao cho các dân tộc biết, hầu cho người Giu-đa sẵn sàng về ngày đó, mà trả thù các cừu địch mình. 14. Vậy những lính trạm cỡi ngựa hăng và ngựa nòi, vâng mạng vua thúc giục lật đật đi. Đoạn chiếu chỉ ấy được truyền ra trong kinh đô Su-sơ. 15. Mạc-đô-chê từ trước mặt vua trở ra, mặc đồ triều phục xanh và trắng, đội một cái mão triều thiên lớn bằng vàng, và mặc một cái áo dài bằng bố gai mịn màu tím; thành Su-sơ cất tiếng reo mừng và hớn hở. 16. Về phần dân Giu-đa, thì có sự sáng sủa, vui vẻ, khoái lạc và vinh hiển. 17. Trong mỗi tỉnh mỗi thành, phàm nơi nào có mạng lịnh và chiếu chỉ của vua thấu đến, thì có sự vui mừng và sự khoái lạc cho dân Giu-đa, bữa yến tiệc và một ngày ăn lễ. Có nhiều kẻ trong các dân tộc của xứ lại nhập bọn với dân Giu-đa; bởi vì chúng nó bắt sợ hãi dân Giu-đa lắm.

Bản Dịch 2011

Ê-xơ-tê Cứu Người Do-thái

1 Trong chính ngày đó Vua A-ha-suê-ru ban cho Hoàng Hậu Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, kẻ thù của người Do-thái; đồng thời Mạc-đô-chê cũng được triệu vào để ra mắt vua, vì Ê-xơ-tê đã tâu với vua về liên hệ giữa bà và ông ấy. 2 Bấy giờ vua cởi chiếc nhẫn có con dấu vua đã lấy lại nơi tay Ha-man và trao cho Mạc-đô-chê. Thế là Ê-xơ-tê lập Mạc-đô-chê làm người quản cai mọi sự trong nhà của Ha-man.

3 Kế đó Ê-xơ-tê tâu với vua. Bà sấp mình nơi chân vua mà khóc và van nài, xin vua đẩy lui âm mưu thâm độc của Ha-man người A-ga-ghi, và kế hoạch ông ấy đã lập để hại người Do-thái. 4 Vua đưa cây phủ việt bằng vàng ra cho Ê-xơ-tê, 5 Ê-xơ-tê trỗi dậy và đứng trước mặt vua. Bà nói, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu việc này được thấy là phải lẽ trước mặt hoàng thượng, kính xin hoàng thượng ban lệnh thu hồi những sắc chỉ mà Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, đã viết ra để truyền lệnh tiêu diệt người Do-thái sống trong các tỉnh của hoàng thượng, 6 vì làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc mình? Hay làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi trông thấy cảnh đồng bào của mình bị tiêu diệt?”

7 Bấy giờ Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê và với Mạc-đô-chê người Do-thái, “Này, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo hắn trên mộc hình rồi, vì hắn đã lập mưu để tiêu diệt dân Do-thái. 8 Bây giờ các khanh có thể nhân danh trẫm viết về việc dân Do-thái như thế nào tùy ý các khanh, sau đó niêm phong nó lại, rồi dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào, vì một khi sắc chỉ được nhân danh trẫm viết ra và dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào thì không thể thu hồi được.”

9 Bấy giờ các ký lục của vua được triệu đến, vào ngày hai mươi ba tháng ba, tức tháng Si-van. Một sắc chỉ theo lệnh của Mạc-đô-chê đã được viết ra, gởi cho người Do-thái và gởi cho các thống đốc, các tổng trấn, và các tỉnh trưởng ở các tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-pi, một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy, và cũng gởi cho dân Do-thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. 10 Ông nhân danh Vua A-ha-suê-ru viết các sắc chỉ ấy, rồi dùng ấn dấu của vua đóng vào. Ðoạn những người đưa thư cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua mang các sắc chỉ ấy cấp tốc ra đi.

11 Nội dung các sắc chỉ ấy truyền rằng vua cho phép người Do-thái trong mỗi thành được quyền tụ họp lại để bảo vệ mạng sống mình; họ được quyền tiêu diệt, giết chết, và tận diệt bất cứ quân đội của dân nào hoặc tỉnh nào đến tấn công họ; họ được quyền đánh giết luôn vợ con và cướp lấy tài sản của những kẻ đó. 12 Lệnh ấy có hiệu lực trong một ngày, đó là ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa, trong khắp các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru.

13 Bản sao của sắc chỉ ấy cũng được ban hành ở mỗi tỉnh dưới hình thức sắc lệnh, để công bố cho mọi dân tộc biết và đặc biệt là cho người Do-thái biết, hầu họ chuẩn bị sẵn sàng để báo trả những kẻ thù của họ. 14 Vậy những người đưa thư nhận lệnh vua, cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua, cấp tốc mang các sắc chỉ ra đi. Ngay tại Kinh Ðô Su-sa một chiếu chỉ về việc ấy cũng được ban hành.

15 Khi Mạc-đô-chê từ trong hoàng cung đi ra, mình mặc triều phục màu tím và trắng, đầu đội mão triều lớn bằng vàng, bên ngoài khoác chiếc áo choàng màu tía làm bằng vải gai mịn, dân thành Su-sa trông thấy ông, họ cất tiếng reo hò và mừng rỡ. 16 Bấy giờ đối với người Do-thái, đó là dấu hiệu của sự sáng sủa và vui mừng, hân hoan và hãnh diện. 17 Trong mỗi tỉnh và mỗi thành, nơi nào lệnh của vua và sắc chỉ của vua đến, nơi đó người Do-thái hân hoan và mừng rỡ. Họ mở tiệc ăn mừng và xem đó là một ngày phước hạnh. Bấy giờ nhiều người trong các xứ tự nhận mình là người Do-thái, bởi vì nỗi sợ hãi người Do-thái đã giáng xuống trên họ.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
  • Thánh Kinh Lược Khảo - Nhà Xuất Bản Tin Lành Sài Gòn (1970)