Ê-xê-chi-ên: Chương 10

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB26C010)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Lúc đó tôi nhìn, và thấy trong vòm trời phía trên đầu của các chê-ru-bim xuất hiện một vật gì giống như một cái ngôi bằng đá bích ngọc. 2. Ngài phán cùng người mặc y phục bằng vải gai mịn rằng: Hãy đi vào, đến chỗ các bánh xe dưới chân của chê-rúp. Hãy hốt đầy những than lửa đang cháy ở giữa các chê-ru-bim vào tay của ngươi, rồi rải chúng khắp thành phố. Người đó đã đi vào, ngay trước mắt của tôi.

3. Lúc đó các chê-ru-bim đang đứng ở phía nam của đền thờ. Khi người đó đi vào, có một đám mây phủ đầy sân trong. 4. Vinh quang của Đức Giê-hô-va từ chê-rúp đã cất lên, đến ngự tại ngưỡng cửa của đền thờ. Ðền thờ đầy mây và sân của đền thờ sáng rực bởi vinh quang của Đức Giê-hô-va. 5. Tiếng vỗ cánh của các chê-ru-bim có thể nghe rõ ở sân ngoài, giống như tiếng của Ðức Chúa Trời Toàn Năng khi Ngài tuyên phán.

6. Sau khi Đức Giê-hô-va đã truyền cho người mặc y phục bằng vải gai mịn rằng: Hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe ở giữa các chê-ru-bim. Người đó đã đi vào, rồi đứng bên cạnh một bánh xe. 7. Một chê-rúp trong các chê-ru-bim đã đưa tay ra lấy một ít lửa đang ở giữa các chê-ru-bim, đặt vào tay của người mặc y phục bằng vải gai mịn. Người đó đã nhận, rồi đi ra.

8. Dưới các cánh của các chê-ru-bim có cấu trúc giống như bàn tay của loài người. 9. Tôi nhìn và thấy có bốn bánh xe bên cạnh các chê-ru-bim. Một bánh xe cho chê-rúp nầy, và một bánh xe cho chê-rúp khác. Các bánh xe xuất hiện có màu giống như bích ngọc. 10. Sự xuất hiện của cả bốn nhưng giống như một: giống như một bánh xe ở trong một bánh xe. 11. Khi họ di chuyển, họ đi theo một trong bốn hướng, họ cứ đi mà không phải quay lại để đi; bởi vì cái đầu nhìn về hướng nào thì các chê-ru-bim đi về hướng đó mà không quay lại khi đi. 12. Toàn thân của các chê-ru-bim, lưng, tay, cánh, và các bánh xe, đều có đầy những con mắt ở chung quanh. Các bánh xe của cả bốn đều có như vậy. 13. Tôi nghe các bánh xe đó được gọi là “những bánh xe quay.” 14. Mỗi chê-rúp có bốn mặt, mặt thứ nhất là mặt chê-rúp, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt chim đại bàng.

15. Sau đó, các chê-ru-bim được cất lên. Đây là sinh vật mà tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. 16. Khi các chê-ru-bim di chuyển, các bánh xe bên cạnh họ cũng di chuyển. Khi các chê-ru-bim cất cánh bay lên khỏi đất, các bánh xe không quay lại, nhưng vẫn ở bên cạnh họ. 17. Khi họ đứng yên, chúng đứng yên. Khi họ bay lên, chúng cũng bay lên, bởi vì Thần Linh của sinh vật ở trong chúng.

18. Vinh quang của Đức Giê-hô-va rời khỏi ngưỡng cửa đền thờ, và ngự trên các chê-ru-bim. 19. Các chê-ru-bim cất cánh bay lên khỏi đất ngay trước mắt tôi. Khi họ ra đi, các bánh xe cũng đi bên cạnh. Họ đã đứng lại tại lối vào cổng phía đông của nhà Đức Giê-hô-va. Vinh quang của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ngự trên họ.

20. Đây là những sinh vật mà tôi đã thấy bên dưới Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bên bờ sông Kê-ba, và tôi biết rằng họ là các chê-ru-bim. 21. Mỗi chê-rúp có bốn mặt và bốn cánh, dưới các cánh có vật gì giống như những bàn tay của loài người. 22. Diện mạo của họ giống như diện mạo của các sinh vật mà tôi đã thấy nơi bờ sông Kê-ba - cả hình trạng lẫn bản thể. Mỗi vị đều nhìn thẳng và mỗi vị đều đi thẳng về phía trước.

Bản Dịch 1925

1. Ta nhìn xem, nầy, trên vòng khung giang ra trên đầu các chê-ru-bin có vật gì như là đá bích ngọc, hình trạng như hình cái ngai. 2. Ngài bèn phán cùng người mặc vải gai rằng: Hãy vào trong các khoảng bánh xe quay chóng ở dưới chê-ru-bin; khá từ giữa các chê-ru-bin lấy những than lửa đó bỏ đầy cả hay tay ngươi, rồi rải ra trên thành nầy. Người ấy vào nơi đó trước mặt ta. 3. Khi người vào, thì các chê-ru-bin đứng bên hữu nhà; mây đầy hành lang trong. 4. Sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va bèn dấy lên từ chê-ru-bin, đứng nơi ngạch cửa nhà; nhà đầy mây, và hành lang đầy sự chói sáng của vinh quang Đức Giê-hô-va. 5. Tiếng của những cánh chê-ru-bin vang ra đến hành lang ngoài, giống như tiếng của Đức Chúa Trời Toàn năng, khi Ngài phán.

6. Khi Đức Giê-hô-va đã truyền lịnh cho người mặc vải gai rằng: Hãy lấy lửa từ giữa khoảng các bánh xe quay chóng, giữa các chê-ru-bin, thì người vào và đứng bên một bánh xe. 7. Rồi một chê-ru-bin từ giữa các chê-ru-bin giơ tay ra đến lửa giữa các chê-ru-bin, và lấy lửa đem đặt vào tay người mặc vải gai; người nầy tiếp lấy rồi thì ra. 8. Vả, nơi dưới cánh các chê-ru-bin có tỏ ra hình một cái tay người.

9. Ta còn nhìn xem, nầy, có bốn bánh xe kề bên các chê-ru-bin, bánh xe kề một chê-ru-bin, và một bánh xe khác kề một chê-ru-bin khác; hình trạng những bánh xe ấy giống như bích ngọc. 10. Theo như hình trạng các bánh xe ấy, bốn cái có đồng một hình như một bánh xe ở trong bánh xe. 11. Khi chúng nó đi tới, đều đi bốn phía mình, khi đi chẳng xây lại; tùy theo cái đầu hướng về bên nào, thì chúng nó đi theo; khi đi chẳng xây lại. 12. Cả mình các chê-ru-bin, lưng, tay, cánh, bánh xe, khắp chung quanh đều đầy những mắt, tức các bánh xe mà bốn chê-ru-bin ấy có.

13. Bấy giờ ta nghe gọi bánh xe ấy là bánh xe quay chóng. 14. Mỗi chê-ru-bin có bốn mặt: thứ nhất là mặt chê-ru-bin; thứ nhì, mặt người; thứ ba, mặt sư tử; thứ tư, mặt chim ưng. 15. Đoạn, các chê-ru-bin dấy lên: ấy là vật sống mà ta thấy trên bờ sông Kê-ba. 16. Khi các chê-ru-bin đi, thì các bánh xe đi kề chúng nó; khi các chê-ru-bin sè cánh để dấy lên khỏi đất, thì các bánh xe không quay khỏi bên chúng nó. 17. Khi các chê-ru-bin dừng lại, các bánh xe cùng dừng lại; khi dấy lên, cùng dấy lên; vì thần của vật sống ấy ở trong các bánh xe vậy.

18. Sự vinh hiển Đức Giê-hô-va ra khỏi ngạch cửa nhà, và đứng trên các chê-ru-bin. 19. Các chê-ru-bin sè cánh dấy lên khỏi đất, mà ra trước mắt ta, và các bánh xe ở kề nó; chúng nó dừng nơi lối vào cửa đông nhà Đức Giê-hô-va, và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời Y-sơ-ra-ên ở trên chúng nó. 20. Ấy đó là vật sống mà ta thấy dưới Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên bờ sông Kê-ba, và ta biết nó là chê-ru-bin. 21. Mỗi chê-ru-bin có bốn mặt và bốn cánh; dưới cánh có hình như tay người. 22. Về phần hình trạng của các mặt nó, ấy là những mặt mà ta thấy trên bờ sông Kê-ba, cả hình trạng và chính mình chúng nó; và chúng nó đều đi thẳng tới trước.

Bản Dịch 2011

Vinh Quang của Ðức Chúa Trời Rời Khỏi Giê-ru-sa-lem

1 Bấy giờ tôi nhìn, và kìa, trên vòm phía trên đầu của các chê-ru-bim có cái gì như lam bảo ngọc, hình dáng giống như một cái ngai. 2 Ngài phán với người mặc y phục bằng vải gai mịn, “Hãy đi vào bên trong các bánh xe đang quay dưới chân các chê-ru-bim; hãy lấy hai tay ngươi bụm đầy những than lửa hực đang cháy ở giữa các chê-ru-bim, rồi đem rải chúng ra khắp thành.” Người ấy đi vào ngay trước mắt tôi. 3 Khi ấy các chê-ru-bim đang đứng ở phía nam của đền thờ khi người ấy đi vào, và có một đám mây phủ đầy sân trong của đền thờ. 4 Bấy giờ vinh quang của CHÚA từ trên chê-rúp cất lên và đến ngự tại ngưỡng cửa của đền thờ. Ðền thờ đầy mây, và sân đền thờ sáng rực bằng vinh quang của CHÚA. 5 Tiếng của các cánh chê-ru-bim vỗ có thể nghe rõ ở sân ngoài của đền thờ, giống như tiếng của Ðức Chúa Trời Toàn Năng khi Ngài tuyên phán.

6 Ngài truyền cho người mặc y phục bằng vải gai mịn, “Hãy lấy lửa trong các bánh xe đang quay ở giữa các chê-ru-bim,” người ấy liền tiến vào và đứng cạnh một bánh xe. 7 Một chê-rúp trong số các chê-ru-bim đưa tay ra và lấy một ít lửa đang ở giữa các chê-ru-bim và đặt vào lòng hai bàn tay của người mặc y phục bằng vải gai mịn. Người ấy nhận lửa đó và đi ra. 8 Dưới các cánh của các chê-ru-bim có những cái gì trông giống như tay của loài người.

9 Tôi nhìn, và kìa, có bốn bánh xe bên cạnh các chê-ru-bim. Mỗi chê-rúp đều có một bánh xe bên cạnh, và các bánh xe ấy trông như lục bích ngọc đang lóng lánh. 10 Về hình dáng thì bốn bánh xe ấy đều giống nhau, bánh xe nào cũng có cái gì trông giống một bánh xe ở trong một bánh xe. 11 Khi chúng di chuyển, chúng có thể di chuyển về bất cứ hướng nào trong bốn hướng mà không cần phải quay bánh. Bất cứ hướng nào bánh xe trước tiến tới, các bánh xe kia cũng tiến theo mà không cần phải quay bánh. 12 Toàn thân các chê-ru-bim, lưng, tay, cánh, và các bánh xe, tức các bánh xe của bốn sinh vật, đều có đầy những mắt ở chung quanh. 13 Về các bánh xe, tôi nghe có tiếng gọi chúng là “Bánh Xe Siêu Tốc.” 14 Mỗi chê-rúp có bốn mặt: mặt thứ nhất là mặt chê-rúp, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt đại bàng.

15 Bấy giờ các chê-ru-bim cất lên. Ðó là các sinh vật tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. 16 Khi các sinh vật ấy di chuyển, các bánh xe bên cạnh cũng di chuyển theo. Khi các sinh vật ấy dang cánh ra để cất lên khỏi mặt đất, các bánh xe đó không quay hướng, mà vẫn ở sát bên cạnh các sinh vật ấy. 17 Khi các chê-ru-bim đứng yên, các bánh xe ấy cũng đứng yên. Khi các chê-ru-bim cất lên, các bánh xe đó cũng cất lên theo, vì Thần của các sinh vật ấy ở trong các bánh xe đó.

18 Bấy giờ vinh quang của CHÚA rời khỏi ngưỡng cửa đền thờ và đến ngự bên trên các chê-ru-bim ấy. 19 Trong khi tôi đang nhìn, các chê-ru-bim dang cánh ra và cất lên khỏi mặt đất. Khi các chê-ru-bim bay ra, các bánh xe cũng theo bên cạnh. Các chê-ru-bim dừng lại ở cổng phía đông của nhà CHÚA, và vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên ngự ở trên các chê-ru-bim ấy. 20 Ðó là các sinh vật tôi đã thấy ở phía dưới Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, bên bờ Sông Kê-ba; bấy giờ tôi biết rằng các sinh vật ấy là các chê-ru-bim. 21 Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Dưới mỗi cánh có vật chi trông giống những cánh tay của loài người. 22 Diện mạo của các vị ấy giống y hệt diện mạo của các sinh vật tôi đã thấy nơi bờ Sông Kê-ba. Mỗi sinh vật đều nhìn thẳng về phía trước mà tiến tới.

Tài Liệu

Tài Liệu