Thi Thiên: Chương 78

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB19C078)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

Giáo huấn ca - Thơ của A-sáp

1. Hỡi dân tộc của tôi! Hãy lắng tai nghe những lời khuyên của tôi. Hãy nghiêng tai nghe lời từ miệng của tôi. 2. Tôi sẽ mở miệng nói ngụ ngôn, giãi bày những huyền nhiệm từ thời xa xưa, 3. tức là những điều mà những tổ phụ của chúng ta đã thuật lại cho chúng ta, và chúng tôi đã nghe và biết. 4. Chúng tôi sẽ không che giấu những điều này với con cháu của chúng ta, nhưng thuật lại cho thế hệ sắp đến những điều đáng ca ngợi về Đức Giê-hô-va, về quyền năng của Ngài, và những việc diệu kỳ mà Ngài đã làm. 5. Bởi vì Ngài đã thiết lập lời xác chứng với Gia-cốp, đã ban luật pháp cho Y-sơ-ra-ên, và Ngài đã truyền lệnh cho các tổ phụ của chúng ta phải dạy lại cho con cháu của họ, 6. để thế hệ sắp đến - tức là những con cháu sẽ được sinh ra - sẽ biết những điều đó, và rồi chúng sẽ truyền lại cho con cháu của chúng. 7. Để chúng cũng đặt niềm tin cậy của chúng nơi Ðức Chúa Trời, không quên những công việc của Ðức Chúa Trời, nhưng tuân giữ những điều răn của Ngài; 8. để chúng không giống như tổ tiên của chúng - là một thế hệ ương ngạnh và phản nghịch, một thế hệ không có lòng kiên định, và không có tinh thần trung tín với Đức Chúa Trời.

9. Con cháu của Ép-ra-im là những xạ thủ được trang bị với những mũi tên, nhưng họ đã quay lưng lại trong ngày chiến trận. 10. Họ đã không gìn giữ giao ước của Đức Chúa Trời, khước từ tuân theo luật pháp của Ngài. 11. Họ đã quên những việc mà Ngài đã làm và những phép lạ mà Ngài đã bày tỏ cho họ. 12. Ngài đã làm những việc diệu kỳ trước mặt tổ tiên của họ trong xứ Ai-cập tại đồng bằng Xô-an. 13. Ngài đã rẽ biển cho họ đi qua và khiến nước dồn lại thành đống. 14. Ban ngày Ngài dẫn dắt họ bằng một đám mây, rồi suốt cả đêm Ngài soi sáng họ bằng lửa. 15. Ngài đã chẻ vầng đá trong hoang mạc, ban cho họ nước thật dư dật được tuôn ra từ những vực sâu. 16. Ngài tạo những dòng suối từ vầng đá, khiến nước tuôn chảy như những dòng sông.

17. Dầu vậy, họ vẫn cứ phạm tội với Ngài, phản nghịch cùng Đấng Chí Cao trong hoang mạc. 18. Trong lòng của họ, họ đã thử Ðức Chúa Trời bằng cách đòi hỏi thức ăn theo sở thích của mình. 19. Họ nói nghịch lại Đức Chúa Trời rằng: “Đức Chúa Trời có thể dọn bàn đãi tiệc trong hoang mạc được hay sao? 20. Hãy xem, mặc dầu Ngài đã đập vầng đá cho nước phun ra trở thành những dòng suối tuôn chảy, liệu Ngài có thể ban bánh và cung cấp thịt cho dân của Ngài được sao?”

21. Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã nghe và nổi giận; một ngọn lửa đã bùng lên chống lại Gia-cốp, một cơn giận đã nổi lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên, 22. bởi vì họ không tin Ðức Chúa Trời và không tin cậy nơi sự giải cứu của Ngài. 23. Ngài đã truyền cho các tầng mây trên cao và các cửa trên trời mở ra, 24. Ngài đổ mưa ma-na xuống cho họ ăn và ban ngũ cốc từ trời cho họ. 25. Loài người đã được ăn thức ăn của thiên sứ, và Ngài đã ban cho họ thực phẩm thật dồi dào. 26. Ngài khiến gió đông trên trời thổi lên, dùng quyền năng của Ngài đem gió nam đến. 27. Ngài đổ cơn mưa thịt trên họ nhiều như bụi, chim bay đến nhiều như cát biển; 28. Ngài làm cho chúng sa xuống giữa những căn trại của họ, chung quanh nơi họ ở. 29. Vì vậy họ đã ăn no nê, Ngài cho họ thỏa thuê điều họ thèm muốn. 30. Nhưng trước khi họ thỏa mãn sự thèm muốn của mình, đang khi thức ăn vẫn còn trong miệng của họ, 31. cơn giận của Đức Chúa Trời đã nổi lên cùng họ; Ngài giết những kẻ mập mạnh nhất của họ, và đánh hạ những người trai trẻ của Y-sơ-ra-ên. 32. Dù cho có điều nầy, họ vẫn phạm tội, vẫn không tin những việc quyền năng của Ngài. 33. Vì vậy Ngài đã kết thúc những ngày của đời họ trong hư ảo, và những năm của họ trong kinh hoàng.

34. Lúc Ngài hủy diệt họ thì họ mới tìm cầu Ngài, họ trở lại rồi nhiệt thành tìm kiếm Đức Chúa Trời. 35. Họ nhớ lại rằng Đức Chúa Trời là vầng đá của họ, là Đức Chúa Trời Chí Cao, là Đấng Cứu Chuộc của họ. 36. Dầu vậy họ chỉ lấy miệng tâng bốc Ngài, dùng lưỡi dối gạt Ngài, 37. bởi vì lòng của họ không kiên định với Ngài, cũng không trung tín với giao ước của Ngài. 38. Nhưng do lòng thương xót, Ngài đã tha thứ tội ác của họ và không hủy diệt họ. Nhiều lần Ngài đã kiềm chế cơn giận và đã không nổi cơn thịnh nộ, 39. Ngài nhớ lại rằng họ chỉ là loài xác thịt, là một hơi thở thoáng qua, rồi không bao giờ trở lại.

40. Biết bao lần họ đã phản loạn cùng Ngài trong hoang mạc và làm buồn lòng Ngài giữa chốn hoang vu! 41. Họ cứ tái diễn việc thử thách Đức Chúa Trời, làm tổn thương Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 42. Họ không nhớ đến quyền năng của Ngài trong ngày Ngài đã giải cứu họ khỏi kẻ thù - 43. là lúc Ngài thực hiện những phép lạ của Ngài tại Ai-cập và những việc diệu kỳ của Ngài trong đồng bằng Xô-an; đã biến những dòng sông, những dòng suối thành máu không thể uống được. 45. Ngài đã sai ruồi mòng đến tàn hại chúng, và ếch nhái đến phá hoại chúng. 46. Ngài đã ban mùa màng của chúng cho cào cào, và ban công sức lao động của chúng cho châu chấu. 47. Ngài đã hủy phá vườn nho của chúng bằng mưa đá và những cây vả bằng băng giá. 48. Ngài đã giáng mưa đá trên các bầy bò của chúng và sấm sét trên những bầy gia súc của chúng. 49. Ngài đã trút trên chúng lửa giận, sự thịnh nộ, sự phẫn nộ, và hoạn nạn bằng cách sai đến những thiên sứ hủy diệt. 50. Ngài đãm ở đường cho cơn giận Ngài, không dung thứ linh hồn của chúng khỏi chết nhưng phó mạng sống của chúng cho dịch lệ, 51. hủy diệt tất cả những con đầu lòng của Ai-cập, tức là sinh lực đầu tiên trong các trại của Cham - 52. Nhưng Ngài đã dẫn dân của Ngài ra đi như một bầy chiên. Ngài dẫn dắt họ như một bầy gia súc trong hoang mạc. 53. Ngài đã dẫn dắt họ an toàn, không sợ hãi, vì Ngài đã nhận chìm những kẻ thù của họ dưới biển.

54. Và rồi Ngài mang họ đến ranh giới tại nơi thánh của Ngài, là ngọn núi này mà tay phải của Ngài đã tạo dựng. 55. Ngài đã xua đuổi các dân tộc trước mặt họ, đã bắt thăm phân chia sản nghiệp, và cho các chi tộc Y-sơ-ra-ên định cư trong trại của họ. 56. Dầy vậy, họ vẫn thử thách và phản nghịch cùng Đức Chúa Trời Chí Cao, không tuân giữ những quy ước của Ngài. 57. Nhưng họ đã tráo trở và bất trung như tổ phụ của họ, họ chuyển hướng như cây cung phản trắc. 58. Họ đã chọc giận Ngài bằng các đền miếu tại những nơi cao, để Ngài ghen tức bằng những hình tượng điêu khắc. 59. Nghe vậy, Đức Chúa Trời đã nổi giận, bắt buộc phải từ bỏ Y-sơ-ra-ên. 60. Ngài đã lìa bỏ đền tạm tại Si-lô, tức là căn trại mà Ngài đã đặt ở giữa loài người; 61. thay vì dùng quyền năng, Ngài đã để họ bị bắt lưu đày; thay vì thể hiện vinh quang, Ngài đã phó họ vào tay kẻ thù. 62. Ngài đã phó dân của Ngài cho gươm đao, và tức giận với dân thuộc về Ngài. 63. Lửa thiêu hủy những chàng trai của họ, còn những cô gái của họ đã không được cưới gả. 64. Các tư tế của họ gục ngã vì gươm, mà các góa phụ của họ không thể than khóc.

65. Nhưng rồi Chúa đã thức dậy như Ngài vừa ngủ say, Ngài thét vang như một chiến binh có rượu. 66. Ngài đã đánh quân thù thối lui, Ngài đã giáng trên chúng sự sỉ nhục đời đời. 67. Hơn nữa, Ngài đã từ bỏ trại của Giô-sép, không chọn chi tộc Ép-ra-im, 68. nhưng chọn chi tộc Giu-đa. Ngài yêu mến núi Si-ôn. 69. Ngài đã xây đền thánh của Ngài như trời cao, như quả đất mà Ngài đã thiết lập đời đời. 70. Ngài cũng chọn Đa-vít làm đầy tớ của Ngài, Ngài đem ông ra khỏi những chuồng chiên; 71. Ngài đem ông ra khỏi nơi chăm sóc chiên thơ, để ông chăn dắt Gia-cốp, là dân của Ngài, và Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp của Ngài.

Bản Dịch 1925

1. Hỡi dân sự ta, hãy lắng tai nghe luật pháp ta; Hãy nghiêng tai qua nghe lời của miệng ta.
2. Ta sẽ mở miệng ra nói thí dụ, Bày ra những câu đố của đời xưa,
3. Mà chúng ta đã nghe biết, Và tổ phụ chúng ta đã thuật lại cho chúng ta.
4. Chúng ta sẽ chẳng giấu các điều ấy cùng con cháu họ, Bèn sẽ thuật lại cho dòng dõi hậu lai những sự ngợi khen Đức Giê-hô-va, Quyền năng Ngài, và công việc lạ lùng mà Ngài đã làm.
5. Ngài đã lập chứng cớ nơi Gia-cốp, Định luật pháp trong Y-sơ-ra-ên, Truyền dặn tổ phụ chúng ta phải dạy nó lại cho con cháu mình;
6. Hầu cho dòng dõi hậu lai, tức là con cái sẽ sanh, Được biết những điều đó, Rồi phiên chúng nó truyền lại cho con cháu mình;
7. Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời, Không hề quên các công việc Ngài, Song gìn giữ các điều răn của Ngài,
8. Để chúng nó chẳng như tổ phụ mình, Là một dòng dõi cố chấp phản nghịch, Chẳng dọn lòng cho chánh đáng, Có tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời.
9. Con cháu Ép-ra-im cầm binh khí và giương cung, Có xây lưng lại trong ngày chiến trận.
10. Chúng nó không gìn giữ giao ước của Đức Chúa Trời, Cũng không chịu đi theo luật pháp Ngài,
11. Quên những việc làm của Ngài, Và các công tác lạ lùng mà Ngài đã tỏ cho chúng nó thấy.
12. Tại trong xứ Ê-díp-tô, nơi đồng bằng Xô-an, Ngài làm những phép lạ trước mặt tổ phụ chúng nó.
13. Ngài rẽ biển ra, làm cho họ đi ngang qua, Khiến nước dựng lên như một đống.
14. Ngài dẫn dắt họ, ban ngày bằng áng mây, Trọn ban đêm bằng ánh sáng lửa.
15. Ngài bửa hòn đá ra trong đồng vắng, Ban cho họ uống nước nhiều như từ vực sâu ra.
16. Ngài cũng khiến suối từ hòn đá phun ra, Và làm cho nước chảy ra như sông.
17. Dầu vậy, họ cứ phạm tội cùng Ngài, Phản nghịch cùng Đấng Chí cao trong đồng vắng.
18. Trong lòng họ thử Đức Chúa Trời, Mà cầu xin đồ ăn theo tình dục mình.
19. Họ nói nghịch cùng Đức Chúa Trời, Mà rằng: Đức Chúa Trời há có thể dọn bàn nơi đồng vắng sao?
20. Kìa, Ngài đã đập hòn đá, nước bèn phun ra, Dòng chảy tràn; Ngài há cũng có thể ban bánh sao? Ngài há sẽ sắm sửa thịt cho dân Ngài ư?
21. Vì vậy Đức Giê-hô-va có nghe bèn nổi giận; Có lửa cháy nghịch cùng Gia-cốp, Sự giận nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên;
22. Bởi vì chúng nó không tin Đức Chúa Trời, Cũng chẳng nhờ cậy sự cứu rỗi của Ngài.
23. Dầu vậy, Ngài khiến các từng mây trên cao, Và mở các cửa trời,
24. Cho mưa ma-na xuống trên họ đặng ăn, Và ban cho lúa mì từ trên trời.
25. Người ta ăn bánh của kẻ mạnh dạn; Ngài gởi cho họ đồ ăn đầy đủ.
26. Ngài khiến gió đông thổi trên trời, Nhờ quyền năng mình Ngài dẫn gió nam.
27. Ngài khiến mưa thịt trên chúng nó như bụi tro, Và chim có cánh cũng nhiều như cát biển;
28. Ngài làm các vật đó sa xuống giữa trại quân, Khắp xung quanh nơi ở chúng nó.
29. Như vậy chúng nó ăn, được no nê chán lán, Ngài ban cho chúng nó điều chúng nó ước ao.
30. Chúng nó chưa xây khỏi điều mình ước ao, Vật thực hãy còn trong miệng chúng nó,
31. Bèn có cơn giận của Đức Chúa Trời nổi lên cùng chúng nó, Giết những kẻ béo hơn hết, Đánh hạ những người trai trẻ của Y-sơ-ra-ên.
32. Mặc dầu các sự ấy, chúng nó còn phạm tội, Không tin các công việc lạ lùng của Ngài.
33. Vì cớ ấy Ngài làm cho các ngày chúng nó tan ra hư không, Dùng sự kinh khiếp làm tiêu các năm chúng nó.
34. Khi Ngài đánh giết chúng nó, chúng nó bèn cầu hỏi Ngài, Trở lại tìm cầu Đức Chúa Trời cách sốt sắng.
35. Chúng nó bèn nhớ lại rằng Đức Chúa Trời là hòn đá của mình, Đức Chúa Trời Chí cao là Đấng cứu chuộc mình.
36. Nhưng chúng nó lấy miệng dua nịnh Ngài, Dùng lưỡi mình nói dối với Ngài.
37. Vì lòng chúng nó chẳng khắn khít cùng Ngài, Chúng nó cũng không trung tín trong sự giao ước Ngài.
38. Nhưng Ngài, vì lòng thương xót, tha tội ác cho, chẳng hủy diệt chúng nó: Thật, nhiều khi Ngài xây cơn giận Ngài khỏi, chẳng nổi giận đến cực kỳ.
39. Ngài nhớ lại chúng nó chẳng qua là xác thịt, Một hơi thở qua, rồi không trở lại.
40. Biết mấy lần chúng nó phản nghịch cùng Ngài nơi đồng vắng, Và làm phiền Ngài trong chỗ vắng vẻ!
41. Chúng nó lại thử Đức Chúa Trời, Trêu chọc Đấng thánh của Y-sơ-ra-ên.
42. Chúng nó không nhớ lại tay của Ngài, Hoặc ngày Ngài giải cứu chúng nó khỏi kẻ hà hiếp;
43. Thể nào Ngài đặt các dấu lạ mình tại Ê-díp-tô, Và những phép kỳ mình trong đồng Xô-an;
44. Đổi ra huyết các sông Và các dòng nước chúng nó, đến đỗi không thế uống được.
45. Ngài sai muỗi cắn nuốt họ, Và ếch làm hại chúng nó;
46. Cũng phó hoa lợi chúng nó cho châu chấu, Nộp bông trái công lao họ cho cào cào.
47. Ngài phá vườn nho chúng nó bằng mưa đá, Hủy cây sung họ bằng tuyết giá;
48. Cũng phó trâu bò chúng nó cho mưa đá, Và nộp bầy chiên họ cho sấm sét.
49. Ngài thả nghịch chúng nó cơn giận dữ Ngài, Sự thạnh nộ, sự nóng nả, và gian truân, Tức là một lũ sứ tai họa.
50. Ngài mở lối cho cơn giận Ngài, Chẳng dong thứ linh hồn họ khỏi chết, Bèn phó mạng sống chúng nó cho dịch hạch;
51. Cũng đánh giết mọi con đầu lòng trong Ê-díp-tô, Tức là cường-tráng sanh đầu ở trong các trại Cham.
52. Đoạn Ngài đem dân sự Ngài ra như con chiên. Dẫn dắt họ trong đồng vắng như một bầy chiên.
53. Ngài dẫn chúng nó bình an vô sự, chúng nó chẳng sợ chi: Còn biển lấp lại những kẻ thù nghịch họ.
54. Ngài đưa họ đến bờ cõi thánh Ngài, Tức đến núi mà tay hữu Ngài đã được.
55. Ngài cũng đuổi các dân khỏi trước mặt chúng nó, Bắt thăm và chia xứ làm sản nghiệp cho họ, Khiến các chi phái Y-sơ-ra-ên ở trong trại của các dân ấy.
56. Dầu vậy, chúng nó thử và phản nghịch Đức Chúa Trời Chí cao, Không giữ các chứng cớ của Ngài;
57. Nhưng trở lòng, ở bất trung như các tổ phụ mình: Chúng nó sịa như cây cung sai lệch.
58. Nhân vì các nơi cao, chúng nó chọc giận Ngài, Giục Ngài phân bì tại vì những tượng chạm.
59. Khi Đức Chúa Trời nghe điều ấy, bèn nổi giận, Gớm ghiếc Y-sơ-ra-ên quá đỗi;
60. Đến nỗi bỏ đền tạm tại Si-lô, Tức là trại Ngài đã dựng giữa loài người;
61. Phó sức lực Ngài bị dẫn tù, Và nộp vinh hiển Ngài vào tay cừu địch.
62. Ngài cũng phó dân sự Ngài cho bị thanh gươm, Và nổi giận cùng cơ nghiệp mình.
63. Lửa thiêu nuốt những gã trai trẻ họ, Còn các nữ đồng trinh không có ai hát nghinh thú.
64. Những thầy tế lễ họ bị gươm sa ngã, Song các người góa bụa không than khóc.
65. Bấy giờ Chúa tỉnh thức như người khỏi giấc ngủ, Khác nào kẻ mạnh dạn reo la vì cớ rượu.
66. Ngài hãm đánh những kẻ cừu địch lui lại, Làm cho chúng nó bị sỉ nhục đời đời.
67. Vả lại, Ngài từ chối trại Giô-sép, Cũng chẳng chọn chi phái Ép-ra-im;
68. Bèn chọn chi phái Giu-đa, Là núi Si-ôn mà Ngài yêu mến.
69. Ngài xây đền thánh Ngài giống như nơi rất cao, Khác nào trái đất mà Ngài đã sáng lập đời đời.
70. Ngài cũng chọn Đa-vít là tôi tớ Ngài, Bắt người từ các chuồng chiên:
71. Ngài đem người khỏi bên các chiên cho bú, Đặng người chăn giữ Gia-cốp, là dân sự Ngài, Và Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp Ngài.
72. Như vậy, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm lòng người, Và lấy sự khôn khéo tay mình mà dẫn dắt họ.

Bản Dịch 2011

Ðức Chúa Trời Dẫn Dắt Dân Ngài Mặc Dù Họ Bất Trung

Thơ của A-sáp

Giáo huấn ca

1 Ðồng bào tôi ơi, xin nghe những lời tôi khuyên bảo;

Xin lắng tai nghe những lời tôi nói rất chân tình.

2 Tôi sẽ mở miệng để kể chuyện ngụ ngôn;

Tôi sẽ tỏ ra những điều bí ẩn tự ngàn xưa,

3 Những điều chúng tôi đã nghe và đã biết,

Những điều tổ tiên chúng tôi đã kể cho chúng tôi nghe.

4 Chúng tôi sẽ chẳng giấu những điều ấy với con cháu họ;

Chúng tôi sẽ thuật lại cho thế hệ hầu đến những lời ca ngợi CHÚA,

Và quyền năng Ngài, cùng những việc diệu kỳ Ngài đã làm.

5 Vì Ngài đã lập mệnh lệnh cho Gia-cốp,

Và ban luật pháp cho I-sơ-ra-ên,

Rồi truyền lịnh cho tổ tiên của chúng tôi rằng,

Hãy dạy cho con cháu họ,

6 Ðể thế hệ sắp đến, tức những kẻ chưa được sinh ra, hiểu biết,

Ðể chúng cũng truyền lại cho con cháu chúng,

7 Hầu con cháu chúng cũng để lòng tin cậy Ðức Chúa Trời,

Không quên những công việc của Ðức Chúa Trời,

Nhưng giữ gìn những điều răn Ngài đã dạy,

8 Ðể khỏi giống như tổ tiên chúng,

Một thế hệ ương ngạnh và phản nghịch,

Một thế hệ chẳng giữ lòng trung thành,

Nhưng đã bất trung đối với Ðức Chúa Trời.

9 Con cháu Ép-ra-im là những xạ thủ cung tên lão luyện,

Thế mà họ đã xây lưng bỏ chạy trong ngày lâm trận.

10 Họ chẳng giữ giao ước với Ðức Chúa Trời;

Họ từ chối bước đi theo luật pháp Ngài;

11 Họ đã quên những công việc Ngài,

Và những việc lạ lùng Ngài đã tỏ ra cho họ.

12 Ngài đã làm những việc diệu kỳ trước mặt tổ tiên họ,

Trong xứ Ai-cập, tại đồng bằng Xô-an.

13 Ngài rẽ biển ra, rồi khiến họ đi ngang qua;

Ngài làm cho nước dồn lại thành một đống.

14 Ban ngày Ngài dẫn dắt họ bằng một đám mây;

Ban đêm Ngài soi sáng họ bằng một ánh lửa.

15 Ngài chẻ những vầng đá trong đồng hoang ra,

Cho họ nước ngọt dồi dào như một sông ngầm trào lên lai láng.

16 Ngài khiến những dòng nước phun ra từ một vầng đá,

Và cho nước ngọt tuôn ra như các dòng sông.

17 Dầu vậy họ vẫn cứ phạm tội đối với Ngài,

Mà phản nghịch Ðấng Tối Cao khi ở trong đồng hoang.

18 Trong lòng họ, họ muốn thách đố Ðức Chúa Trời,

Bằng cách đòi hỏi thức ăn mà họ thèm muốn.

19 Họ nói nghịch lại Ðức Chúa Trời rằng,

“Ðức Chúa Trời há có thể dọn tiệc trong đồng hoang sao?

20 Kìa, Ngài đã đập vầng đá để nó phun nước ra,

Khiến các dòng nước ngọt tuôn tràn lai láng;

Nhưng Ngài há có thể ban bánh được sao?

Ngài há có thể chu cấp thịt cho con dân Ngài được ư?”

21 Vì thế CHÚA đã nghe và rất giận;

Một ngọn lửa đã bùng lên nghịch lại Gia-cốp,

Một cơn giận đã nổi lên chống lại I-sơ-ra-ên,

22 Bởi vì họ chẳng tin Ðức Chúa Trời,

Và không tin cậy vào quyền năng giải cứu của Ngài.

23 Dầu vậy Ngài vẫn ban lịnh cho các tầng mây ở trên cao,

Và mở các cửa ở trên trời.

24 Ngài đổ mưa ma-na xuống cho họ ăn,

Và ban thực phẩm từ trời xuống cho họ hưởng.

25 Loài người đã được ăn thức ăn của thiên sứ;

Ngài ban cho họ thực phẩm thật dồi dào.

26 Ngài khiến gió đông trên trời thổi đến;

Và dùng quyền năng Ngài điều khiển gió nồm.

27 Ngài cho mưa thịt sa xuống trên họ nhiều như bụi đất;

Và khiến chim bay đến nhiều như cát của đại dương.

28 Ngài làm cho chúng sa xuống giữa các trại của họ;

Chúng đáp xuống phủ quanh nơi họ ở.

29 Vậy họ được ăn thịt và no nê đầy ứ;

Vì họ thèm ăn thịt nên Ngài cho họ được đã thèm ăn thịt.

30 Nhưng trước khi họ được thỏa lòng thèm muốn của mình;

Ðang khi thức ăn vẫn còn trong miệng họ,

31 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời đã nổi lên nghịch lại họ;

Ngài giết chết những người khỏe mạnh nhất của họ,

Và đánh hạ những người trẻ lực lưỡng của I-sơ-ra-ên.

32 Dù như thế họ vẫn còn phạm tội;

Họ không tin những việc lạ lùng của Ngài.

33 Vì vậy Ngài làm cho những ngày của họ tiêu tan trong hư ảo,

Và những năm của họ kết thúc trong nỗi kinh hoàng.

34 Khi Ðức Chúa Trời giết họ, họ mới chịu tìm kiếm Ngài;

Họ mới quay về và chuyên cần tìm kiếm Ðức Chúa Trời.

35 Họ nhớ lại rằng Ðức Chúa Trời là Vầng Ðá của họ;

Ðức Chúa Trời Tối Cao là Ðấng Cứu Chuộc của họ.

36 Nhưng thật ra họ chỉ dùng miệng mình để nịnh hót Ngài,

Và dùng lưỡi mình để dối gạt Ngài;

37 Vì lòng họ chẳng chút chân thành với Ngài;

Họ cũng không trung thành với giao ước Ngài.

38 Nhưng Ngài, vì lòng thương xót, đã tha tội cho họ,

Và không hủy diệt họ.

Ngài thường phải kiềm hãm cơn giận của Ngài,

Và không bộc lộ hết cơn thịnh nộ của Ngài.

39 Ngài nhớ lại rằng họ chẳng qua chỉ là loài xác thịt,

Một làn gió thoảng qua và không trở lại nữa.

40 Ðã biết bao lần họ phản nghịch Ngài trong đồng hoang,

Và làm buồn lòng Ngài trong miền hoang dã.

41 Họ cứ thách đố Ðức Chúa Trời hết lần này đến lần khác,

Và làm đau lòng Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên.

42 Họ chẳng nhớ gì đến quyền năng Ngài đã thực hiện,

Hay nhớ lại ngày Ngài cứu họ khỏi tay kẻ đàn áp hung tàn,

43 Khi Ngài bày tỏ những phép lạ của Ngài tại Ai-cập,

Và những việc lạ lùng của Ngài trong đồng bằng ở Xô-an;

44 Ngài khiến nước các sông của chúng biến ra như máu,

Nên chúng không uống được các dòng nước của mình.

45 Ngài sai ruồi mòng đến tàn hại chúng,

Và ếch nhái đến hủy phá chúng.

46 Ngài ban mùa màng của chúng cho cào cào,

Và ban kết quả lao động của chúng cho châu chấu.

47 Ngài phá hủy vườn nho của chúng bằng mưa đá,

Và vườn sung của chúng bằng tuyết giá.

48 Ngài ban các bầy trâu bò của chúng cho mưa đá,

Và các đàn chiên dê của chúng cho sấm sét.

49 Ngài trút cơn giận của Ngài xuống trên chúng,

Tức thịnh nộ, cơn giận, và tai ương,

Bằng cách sai một đoàn thần binh hủy diệt ra đi.

50 Ngài mở đường cho cơn thịnh nộ của Ngài tuôn đổ;

Ngài chẳng để cho chúng thoát chết,

Nhưng ban mạng chúng cho tai ương ôn dịch.

51 Ngài giết tất cả con đầu lòng của người Ai-cập,

Ðó là tinh hoa của nòi giống họ trong các trại của Cham;

52 Nhưng Ngài dẫn đưa dân Ngài ra đi như một đàn chiên;

Ngài dẫn dắt họ như một đàn cừu trong đồng hoang;

53 Ngài dìu dắt họ cách an toàn để họ không sợ hãi;

Còn kẻ thù của họ Ngài cho nước biển chôn vùi.

54 Như thế Ngài đã dẫn đưa họ vào xứ thánh của Ngài,

Vào xứ có núi đồi mà Ngài đã dùng tay phải Ngài lấy được.

55 Ngài đuổi các dân bỏ xứ ra đi trước mặt họ;

Ngài chia đất của chúng cho họ làm sản nghiệp;

Ngài cho các chi tộc I-sơ-ra-ên được an cư trong trại của mình.

56 Dầu vậy họ cứ thách đố và chọc giận Ðức Chúa Trời Tối Cao,

Và không gìn giữ các mạng lịnh Ngài.

57 Họ quay lưng lại và hành động cách phản bội như tổ tiên họ;

Họ chuyển hướng như cây cung phản trắc.

58 Họ khiêu khích Ngài bằng các đền miếu trên các nơi cao;

Họ chọc Ngài ghen tức bằng các tượng hình họ chạm khắc.

59 Khi Ðức Chúa Trời nghe thấy vậy, Ngài nổi cơn thịnh nộ;

Ngài tởm ghét I-sơ-ra-ên quá đỗi,

60 Ðến nỗi Ngài bỏ luôn nơi Ngài ngự tại Si-lô,

Tức đền tạm Ngài cho dựng giữa loài người.

61 Ngài để cho Rương Giao Ước quyền năng của Ngài bị cướp đi,

Và để cho vật tiêu biểu vinh quang Ngài lọt vào tay quân giặc.

62 Ngài cũng phó dân Ngài cho lưỡi gươm,

Và trao cơ nghiệp Ngài cho cơn thịnh nộ.

63 Lửa hừng thiêu chết các thanh niên của họ;

Các thiếu nữ của họ không có dịp hát bài ca hôn lễ.

64 Các tư tế của họ ngã gục dưới lưỡi gươm;

Các góa phụ của họ thảm sầu nhưng không thể khóc than.

65 Nhưng rồi CHÚA đã thức dậy như một người vừa no giấc,

Như một dũng sĩ bị rượu nồng làm cho hăng tiết.

66 Ngài đánh đuổi quân thù bỏ chạy;

Ngài giáng trên chúng sỉ nhục đời đời.

67 Nhưng Ngài cũng loại bỏ các trại của Giô-sép,

Ngài đã không chọn chi tộc Ép-ra-im,

68 Nhưng Ngài lại chọn chi tộc Giu-đa,

Với Núi Si-ôn, nơi Ngài yêu mến.

69 Rồi Ngài xây đền thánh Ngài như trời cao vững chắc,

Như trái đất mà Ngài đã dựng nên để còn lại muôn đời.

70 Ngài cũng đã chọn Ða-vít tôi tớ Ngài;

Ngài bắt lấy ông ấy từ giữa ràn chiên;

71 Ngài đem ông ấy ra từ nơi các chiên mẹ cho con bú,

Ðể giao cho ông trách nhiệm chăn giữ Gia-cốp con dân Ngài,

Và I-sơ-ra-ên cơ nghiệp Ngài.

72 Vậy ông ấy chăn dắt họ theo sự liêm chính của lòng ông;

Ông hướng dẫn họ bằng bàn tay khôn khéo của ông.

Tài Liệu