Gióp : Chương 21

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB18C021)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch Việt Ngữ

1. Gióp đáp lại và nói:

2. Xin cẩn thận lắng nghe lời của tôi, và hãy để điều này yên ủi các anh.

3. Xin kiên nhẫn để tôi có thể nói, và rồi sau khi tôi nói xong, các anh hãy giễu cợt.

4. Về phần tôi, có phải tôi phàn nàn với loài người hay sao? Tại sao tôi lại không thể kiên nhẫn?

5. Hãy nhìn xem tôi và rồi sững sờ. Hãy lấy tay che miệng lại.

6. Mỗi khi nhớ lại, tôi cảm thấy bàng hoàng, cố gắng kềm giữ thể xác đang run lẩy bẩy.

7. Tại sao kẻ gian ác vẫn còn sống, càng về già càng trở nên cường thịnh?

8. Chúng nhìn thấy dòng dõi của chúng được vững vàng, tận mắt thấy con cháu của chúng hiện diện cùng với chúng.

9. Nhà của chúng an toàn không phải sợ hãi. Ngọn roi của Đức Chúa Trời không đụng đến chúng.

10. Bò đực của chúng truyền giống không hư, bò cái của chúng sinh con không sẩy.

11. Chúng cho trẻ con của chúng nô đùa như một bầy chiên, con cái của chúng nhảy múa.

12. Chúng trỗi giọng theo tiếng trống rung và hạc cầm, hân hoan theo tiếng sáo.

13. Chúng hưởng những năm tháng giàu sang, rồi trong phút chốc đi vào phần mộ.

14. Chúng nói với Đức Chúa Trời: Hãy lìa xa chúng tôi! Chúng tôi không muốn biết đường lối của Ngài.

15. Đấng Toàn Năng là ai mà chúng tôi phải phục vụ? Có lợi ích gì mà chúng tôi phải cầu khẩn Ngài?

16. Tuy nhiên sự phồn vinh đâu có nằm trong tay của chúng? Tôi sẽ lánh xa mưu chước của kẻ gian tà.

17. Có bao lần ngọn đèn của kẻ ác bị dập tắt, tai họa được giáng trên chúng, và Ngài nổi giận ban hình phạt trên chúng?

18. Chúng giống như một cọng rơm trước gió, như trấu bị bão cuốn đi.

19. Người ta nói: “Đức Chúa Trời để dành tội ác của một người cho con cháu của người đó" - Nguyện Ngài báo trả cho mỗi người về tội lỗi của chính mình để cho người đó thấy.

20. Xin cho chính mắt của hắn nhìn thấy sự diệt vong, để cho hắn uống cơn thịnh nộ của Đấng Toàn Năng.

21. Bởi vì hắn có thể làm gì được cho gia đình của hắn sẽ còn ở lại, trong khi số tuần trăng của hắn đã bị cắt đi một nửa.

22. Ai có thể dạy Ðức Chúa Trời thế nào là sự hiểu biết, trong khi chính Ngài đang phán xét những vị ở trên cao?

23. Người nầy chết trong khi tràn đầy sức lực, đang sống nhàn hạ và an ninh.

24. Thân thể tràn đầy nhựa sống, xương tủy vẫn còn tươi tốt.

25. Người khác chết với tâm hồn cay đắng, chưa bao giờ nếm trải phước hạnh.

26. Cả hai đều giống nhau, cùng nằm trong tro bụi, và rồi dòi bọ che phủ họ.

27. Nầy, tôi biết những tư tưởng của các anh cùng những âm mưu toan tính hại tôi.

28. Bởi vì các anh hỏi: Nhà của người quyền quý ở đâu? Lều trại là chỗ ở của những kẻ gian ác ở đâu?

29. Các anh không biết đường cùng những bảng chỉ đường, nhưng các anh không hỏi những lữ khách.

30. Kẻ ác được để dành cho ngày hủy diệt, chúng sẽ được đem ra trong ngày thịnh nộ.

31. Ai sẽ tố cáo ngay vào mặt của hắn? Ai sẽ báo trả cho hắn về cách mà hắn đã làm?

32. Nhưng hắn sẽ bị đem xuống huyệt, và phía trên phần mộ có một lời cảnh tỉnh.

33. Những vón đất trong thung lũng sẽ là sự êm dịu cho hắn, mọi người sẽ theo hắn, và vô số người, không thể đếm được, đã đi trước hắn.

34. Vì vậy, làm sao các anh có thể an ủi tôi với những lời vô nghĩa, bởi vì những câu trả lời của các anh là sai lầm.

Bản Dịch 1925

1. Gióp đáp rằng:
2. Hãy nghe kỹ càng lời giảng luận tôi; Thì điều đó sẽ thế cho sự an ủi của các bạn.
3. Hãy nhịn nhục tôi, để tôi nói: Sau khi tôi đã nói, các bạn hãy cứ nhạo báng đi.
4. Còn về phần tôi, than van tôi há hướng về loài người sao? Nhân sao trí tôi không hết nhịn nhục?
5. Hãy xem xét tôi, và lấy làm lạ; Khá lấy tay bụm miệng mình.
6. Khi nào tôi nhớ lại, tôi bèn bị kinh hoảng, Rởn óc cả và thịt tôi.
7. Cớ sao kẻ gian ác sống, Trở nên già cả và quyền thế cường thạnh?
8. Dòng dõi chúng nó thành lập có mắt chúng nó thấy, Và con cháu họ ở trước mặt họ.
9. Nhà của chúng nó được bình yên, không sợ gì, Roi của Đức Chúa trời chẳng đánh mình chúng nó.
10. Bò đực chúng nó sanh sảnh không hề thiếu kém, Bò cái họ sanh đẻ không có sảo.
11. Chúng nó cho các đứa trẻ mình đi ra như một bầy chiên, Và con cái họ giỡn chơi nhau.
12. Hát múa theo tiếng trống nhỏ và đàn cầm, Và vui mừng theo tiếng kèn sáo.
13. Chúng nó may mắn trải qua các ngày đời mình, Rồi bỗng chốc sa xuống âm phủ.
14. Chúng nó nói với Đức Chúa Trời rằng: "Ngài hãy lìa xa chúng tôi, Vì chúng tôi không muốn biết đạo của Ngài."
15. Đấng Toàn năng là chi, mà chúng tôi phải phục sự Ngài? Nếu chúng tôi cầu khẩn Ngài thì được ích gì?
16. Kìa sự may mắn chúng nó chẳng ở nơi tay chúng nó: Các mưu chước kẻ ác cách xa tôi.
17. Cái đèn kẻ ác tắt, Tai họa giáng trên chúng nó, Và trong cơn thạnh nộ, Đức Chúa Trời phân phát đau đớn cho chúng nó, Điều đó há có thường xảy đến sao?
18. Há năng xảy ra chúng nó phải như rơm trước gió, Như trấu bị bão cất đi sao?
19. Các bạn nói rằng: Đức Chúa Trời dành sự hình phạt về hung ác nó cho con cái nó. Đức Chúa Trời khá báo cho chính mình nó, để nó biết:
20. Khá chính con mắt hắn xem thấy điều hư hoại mình, Và uống được sự thạnh nộ của Đấng Toàn năng.
21. Vì khi số ngày định cho nó đã hết rồi, Nó nào kể chi đến gia quyến sau nó?
22. Đức Chúa Trời xét đoán những người cao vị; Vậy, người ta há sẽ dạy tri thức cho Ngài sao?
23. Kẻ nầy thác giữa chừng mạnh mẽ, Được thanh nhàn và bình an mọi bề;
24. Hai bình người đầy sữa, Và tủy xương người nhuần đượm.
25. Kẻ khác lại chết giữa chừng cay đắng linh hồn, Chẳng hề được nếm điều phước hạnh gì hết.
26. Cả hai đều nằm chung trong bụi đất, Giòi sâu che lấp họ.
27. Nầy, tôi biết ý tưởng các bạn, Cùng các mưu kế các bạn toan dùng đặng tàn hại tôi.
28. Vì các bạn nói rằng: "Nhà kẻ cường bạo ở đâu? Trại kẻ ác ở nơi nào?"
29. Chớ thì các bạn chẳng hề hỏi khách qua đường sao? Há chẳng nhờ chứng cớ của họ mà nhìn biết rằng,
30. Trong ngày tai họa, kẻ hung ác được khỏi, Và trong ngày thạnh nộ, nó được thoát?
31. Tại trước mặt hắn, ai dám trách hắn vì tánh hạnh hắn? Ai sẽ báo ứng điều hắn đã làm?
32. Nó sẽ được đưa đến huyệt mả, Và người ta sẽ canh giữ phần mộ nó.
33. Các cục đất của trũng lấy làm êm dịu cho nó; Mọi người đều đi noi theo, Và kẻ đi trước thì vô số.
34. Vậy, sao các bạn an ủi tôi vô ích dường ấy? Vì những câu đáp của các bạn chỉ còn sự bất trung mà thôi.

Bản Dịch 2011

Gióp Cho Rằng Kẻ Gian Ác Thường Không Bị Phạt

1 Bấy giờ Gióp trả lời và nói:

2 Xin nghe kỹ những gì tôi nói;

Nghe tôi trình bày là các anh đã trực tiếp an ủi tôi.

3 Xin chịu khó nghe tôi khi tôi phát biểu;

Sau khi tôi nói rồi, các anh có thể mặc tình chế giễu tôi.

4 Về phần tôi, có phải tôi phàn nàn loài người chăng?

Nếu thế thì tại sao tôi không thể nhẫn nại được chứ?

5 Hãy nhìn tôi đây và lấy làm kinh ngạc đi;

Các anh cứ lấy tay che miệng các anh lại đi.

6 Tôi kinh hãi mỗi khi tôi nghĩ đến cảnh tôi đang chịu;

Da thịt tôi cứ nổi gai ốc cùng mình. 

7 Tại sao kẻ gian ác cứ sống mãi và được cao niên trường thọ?

Tại sao quyền lực của chúng cứ mỗi ngày một mạnh thêm?

8 Chúng nhìn thấy con cái chúng trưởng thành thạnh đạt;

Mắt chúng thấy cháu chắt chúng sum họp vui vầy.

9 Nhà của chúng an toàn, không gì phải lo sợ;

Roi của Ðức Chúa Trời không đụng tới chúng chút nào.

10 Các bò đực của chúng gây giống không hề bị thất bại;

Các bò cái của chúng sinh đẻ chẳng bao giờ bị sảo thai.

11 Chúng sai các con thơ chúng ra đi như một đàn chiên nhỏ;

Các con cái chúng tung tăng vui đùa với nhau.

12 Chúng nhảy múa theo tiếng trống cơm và hạc cầm vui nhộn;

Chúng hân hoan nhảy nhót theo điệu kèn sáo trỗi lên.

13 Chúng được sống những ngày đầy vinh hoa phú quý;

Chúng qua đời và xuống âm phủ bình an.

14 Chúng nói với Ðức Chúa Trời, “Hãy dang xa chúng tôi.

Chúng tôi không muốn biết các đường lối Ngài.

15 Ðấng Toàn Năng là ai mà chúng tôi phải thờ phượng?

Chúng tôi sẽ được lợi gì khi cầu nguyện với Ngài?”

16 Này, các phước hạnh của chúng không ở trong tay chúng;

Tôi không muốn dính líu đến ý đồ của phường gian ác ấy.

17 Có bao phen đèn của phường gian ác bị vụt tắt?

Có mấy lần phần của chúng bị chuốc lấy tai ương?

Có mấy khi chúng bị cơn thịnh nộ của Ngài giáng xuống?

18 Có khi nào chúng như rơm rạ gặp gió lốc tốc đi?

Hay như rác rến bị cuồng phong cuốn mất?

19 Các anh có thể nói, “Biết đâu Ðức Chúa Trời chất chứa tội của nó để sau này sẽ giáng hình phạt trên con cháu nó thì sao?”

Nhưng tôi thiết nghĩ, “Chính nó phải bị báo trả trực tiếp để nó biết hậu quả của tội ác nó đã gây ra.”

20 Ước gì chính mắt nó chứng kiến cảnh nó bị tiêu diệt,

Và chính nó phải uống cơn thịnh nộ của Ðấng Toàn Năng.

21 Vì nó có thể làm gì được cho gia đình của nó còn ở lại,

Sau khi nó ra đi vì tuổi thọ của nó đã hết rồi chăng?

22 Ai dám dạy Ðức Chúa Trời thế nào là hiểu biết,

Trong khi chính Ngài phán xét các đấng ở trên cao chăng?

23 Có người chết đi trong khi tràn đầy sức lực;

Sống an nhàn và rất mực an ninh.

24 Thân thể của người ấy thật phương phi mập mạnh;

Xương tủy người ấy đầy nhựa sống tuôn tràn.

25 Trong khi người khác lại qua đời trong đắng cay đói khổ;

Suốt cuộc đời không được hưởng một chút phước hạnh gì.

26 Rồi cả hai cùng bị chôn vùi vào bụi đất,

Ðể mặc cho giòi bọ rúc rỉa thịt mình.

27 Này, tôi biết rõ các anh đang nghĩ gì;

Tôi biết ngay cả ý các anh định dùng để chứng tỏ tôi sai.

28 Vì các anh hỏi, “Nhà của người quyền quý ở đâu?

Còn lều của phường gian ác ở nơi nào?”

29 Các anh chưa hề hỏi những khách lữ hành sao?

Các anh không chấp nhận các bằng chứng của họ ư?

30 Chẳng phải kẻ ác đã được để dành cho ngày hủy diệt sao?

Há nó được thoát nạn trong ngày thịnh nộ sao?

31 Ai dám nói thẳng vào mặt nó về nếp sống gian ác của nó?

Ai có thể báo trả nó về những khổ đau nó gây ra cho người khác?

32 Thế mà khi chết nó lại được khiêng đến tận nơi phần mộ;

Và có người được cắt đặt để canh gác mồ mả của nó.

33 Những cục đất trong thung lũng thật êm ái cho nó;

Mọi người theo sau nó và vô số người đi trước nó.

34 Vì thế những lời an ủi của các anh đối với tôi đều vô ích;

Những giải đáp của các anh chẳng giúp cho tôi được gì, vì thảy đều không đúng.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành
  • Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành