II Sử Ký: Chương 23

Từ Thư Viện Tin Lành
(đổi hướng từ KTB14C023)
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm

Bản Dịch 1925

1. Năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa làm cho mình nên mạnh, vời các quan tướng cai trăm người, là A-xa-ria, con trai của Giê-rô-ham, Ích-ma-ên, con trai của Giô-ha-nan, A-xa-ria, con trai của Ô-bết, Ma-a-xê-gia, con trai của A-đa-gia, và Ê-li-sa-phát, con trai của Xiếc-ri, và lập giao ước với các người ấy. 2. Những người ấy đi khắp xứ Giu-đa, và từ các thành Giu-đa nhóm người Lê-vi và các trưởng tộc của Y-sơ-ra-ên; rồi họ đều đến Giê-ru-sa-lem. 3. Cả hội chúng đều lập giao ước với vua tại trong đền thờ của Đức Chúa Trời. Giê-hô-gia-đa nói với chúng rằng: Nầy con trai của vua sẽ cai trị theo lời Đức Giê-hô-va đã phán về con cháu Đa-vít. 4. Nầy điều các ngươi sẽ làm: Một phần ba trong các ngươi, tức những thầy tế lễ và người Lê-vi, đến phiên trong ngày sa-bát, sẽ giữ cửa; 5. một phần ba sẽ vào trong cung vua, và một phần ba ở nơi cửa Giê-sốt; còn cả dân sự sẽ ở nơi hành lang của đền Đức Giê-hô-va. 6. Chớ để ai vào trong đền của Đức Giê-hô-va ngoại trừ những thầy tế lễ và các người Lê-vi phục sự: họ sẽ vào, bởi vì họ thánh sạch, cả dân sự sẽ giữ mạng lịnh của Đức Giê-hô-va. 7. Người Lê-vi sẽ vây chung quanh vua, ai nấy đều cầm binh khí nơi tay; hễ ai vào đền thờ thì sẽ bị giết; các ngươi khá theo hầu vua khi người đi ra đi vào.

8. Người Lê-vi và cả Giu-đa đều làm theo lời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đã dặn bảo; mỗi người đều lãnh kẻ thủ hạ mình, hoặc những kẻ vào phiên ngày sa-bát hay là kẻ mãn phiên ngày sa-bát; vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa không cho các phiên đổi về. 9. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phát cho các quan tướng cai trăm người, những giáo, khiên nhỏ và lớn của vua Đa-vít, để trong đền Đức Chúa Trời. 10. Người khiến dân chúng, ai nấy cầm binh khí mình, sắp hàng đứng chung quanh vua dài theo bàn thờ và đền, từ bên hữu đền cho đến bên tả đền. 11. Đoạn chúng đem vương tử ra, đội mão triều thiên trên đầu người, và trao luật pháp cho người, rồi tôn người làm vua; Giê-hô-gia-đa và các con trai người xức dầu cho người mà rằng: Vua vạn tuế!

12. Khi A-tha-li nghe tiếng dân sự chạy và chúc tụng vua, thì đi đến cùng dân sự tại trong đền Đức Giê-hô-va. 13. Bà xem thấy vua đứng trên cái sạp tại cửa vào; các quan tướng và kẻ thổi kèn đứng gần bên vua; còn cả dân sự của xứ đều vui mừng và thổi kèn, lại có những kẻ ca xướng gảy nhạc khí, mà ngợi khen Đức Chúa Trời. A-tha-li bèn xé áo mình mà la lên rằng: Phản ngụy! phản ngụy! 14. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa đòi ra các quan tướng cai trăm người được đặt thống quản đạo quân, mà biểu rằng: Hãy dẫn bà ra ngoài khỏi hàng quân, hễ ai theo bà, khá giết nó bằng gươm, vì thầy tế lễ đã dạy rằng: Chớ giết bà tại trong đền thờ của Đức Giê-hô-va. 15. Chúng bèn vẹt đường cho bà; bà trở vào cung vua bởi nơi cửa ngựa vào; rồi chúng giết bà tại đó.

16. Giê-hô-gia-đa bèn lập giao ước với cả dân sự và với vua, để chúng làm dân sự của Đức Giê-hô-va. 17. Cả dân sự đều đi đến miễu Ba-anh, phá dỡ nó, đập bể bàn thờ và hình tượng nó, rồi giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, tại trước bàn thờ. 18. Chiếu theo ban thứ Đa-vít đã định trong đền của Đức Giê-hô-va, Giê-hô-gia-đa giao các chức sự về đền Đức Giê-hô-va vào tay những thầy tế lễ và người Lê-vi, đặng dâng những của lễ thiêu cho Giê-hô-va cách ca hát vui mừng, y theo đều đã chép trong luật pháp của Môi-se, và theo lệ Đa-vít đã định. 19. Người cũng đặt những kẻ canh cửa ở nơi các cửa đền Đức Giê-hô-va, hầu cho ai bị ô uế về vô luận sự gì, đều chẳng được vào đó. 20. Người lãnh lấy những quan tướng cai trăm người, kẻ tước vị và những người quan trưởng của dân, cùng cả dân sự của xứ, mà rước vua từ đền Đức Giê-hô-va xuống, đi vào cung vua bởi cửa trên, rồi đặt vua ngồi trên ngôi nước. 21. Hết thảy dân sự của xứ đều vui mừng, và thành được bình tịnh. Vả, chúng đã giết A-tha-li bằng gươm.

Bản Dịch 2011

Giô-ách Ðược Lập Làm Vua

A-tha-li-a Bị Xử Tử

(2 Vua 11:4-16)

1 Trong năm thứ bảy, Giê-hô-gia-đa củng cố địa vị của ông. Ông kết ước với các vị chỉ huy hàng trăm quân: A-xa-ri-a con của Giê-rô-ham, Ích-ma-ên con của Giê-hô-ha-nan, A-xa-ri-a con của Ô-bết, Ma-a-sê-gia con của A-đa-gia, và Ê-li-sa-phát con của Xích-ri. 2 Những người ấy đi khắp nước Giu-đa mời những người Lê-vi trong tất cả các thành của Giu-đa và các vị tộc trưởng các thị tộc người I-sơ-ra-ên tập họp về Giê-ru-sa-lem. 3 Toàn thể hội chúng lập một giao ước với vua trong Ðền Thờ của Ðức Chúa Trời. Ông nói với họ, “Này, con của vua sẽ trị vì chúng ta, y như CHÚA đã phán về dòng dõi của Ða-vít. 4 Ðây là những gì anh em sẽ làm: Một phần ba của anh em, tức các tư tế và những người Lê-vi, sẽ đến trong ngày Sa-bát và có nhiệm vụ canh gác các cửa Ðền Thờ; 5 một phần ba khác sẽ canh gác chỗ vua ở; và một phần ba còn lại sẽ canh gác ở các cổng bước lên nền Ðền Thờ. Tất cả những người còn lại sẽ tập họp vào các sân Ðền Thờ CHÚA. 6 Tuy nhiên không ai được phép vào bên trong Ðền Thờ CHÚA, ngoại trừ các tư tế và những người Lê-vi có trách nhiệm phục vụ trong đó. Chỉ những người ấy mới được vào, vì họ đã được biệt riêng ra thánh. Còn tất cả những người khác sẽ ở ngoài chờ thi hành mệnh lệnh CHÚA giao phó. 7 Người Lê-vi có nhiệm vụ ở chung quanh vua để bảo vệ vua. Ai nấy đều cầm gươm trong tay. Hễ ai xông vào Ðền Thờ, hãy thẳng tay giết chết. Anh em phải theo sát bên vua để bảo vệ, bất cứ vua đi vào hay đi ra.”

8 Vậy những người Lê-vi và tất cả các vị chỉ huy quân Giu-đa đều làm theo mọi điều Tư Tế Giê-hô-gia-đa đã truyền. Ai nấy tụ họp đông đủ lực lượng của mình, gồm những người tới phiên phục vụ trong ngày Sa-bát và những người đã hết phiên phục vụ trong ngày Sa-bát, vì Tư Tế Giê-hô-gia-đa không cho ai vừa mãn phiên phục vụ hôm đó được về nhà. 9 Bấy giờ Tư Tế Giê-hô-gia-đa phát cho các sĩ quan chỉ huy các đơn vị hàng trăm quân các giáo mác, mộc, và khiên của Vua Ða-vít, vốn để sẵn trong Ðền Thờ của Ðức Chúa Trời. 10 Sau đó ông chia tất cả các toán quân ấy ra các vị trí của họ. Mỗi người cầm binh khí trong tay, đứng từ bên phải Ðền Thờ cho đến bên trái Ðền Thờ, quanh bàn thờ và Ðền Thờ, cốt để ở chung quanh vua hầu bảo vệ vua. 11 Kế đến họ đưa hoàng tử ra, đội vương miện trên đầu chàng, trao cho chàng một bản sao của Chứng Ước, và lập chàng làm vua. Giê-hô-gia-đa và các con trai ông xức dầu cho chàng, và họ tung hô, “Ðức Vua Vạn Tuế!”

12 Khi A-tha-li-a nghe tiếng dân chúng vừa chạy vừa tung hô vua, bà liền đến Ðền Thờ CHÚA để gặp dân. 13 Bà nhìn, và kìa, vua đang đứng trên bục ở cổng chính. Các vị chỉ huy và ban kèn đang ở bên cạnh vua. Mọi người trong xứ reo mừng, và kèn thổi vang lừng. Ban nhạc trỗi nhạc, và ca đoàn cất tiếng ca ngợi theo sự điều khiển của những người hướng dẫn. Thấy vậy A-tha-li-a xé áo của bà và la lên, “Phản tặc! Phản tặc!” 14 Tư Tế Giê-hô-gia-đa truyền lịnh cho các vị chỉ huy hàng trăm quân, tức những người đang chỉ huy các đơn vị ở đó, “Hãy lôi bà ấy ra khỏi toán quân hộ giá, và nếu ai đi theo bà ấy, hãy dùng gươm giết đi.” Số là tư tế đã nói, “Chớ giết bà ấy trong khu vực Ðền Thờ CHÚA.” 15 Vậy họ bắt bà, và khi bà đến cổng dành cho ngựa vào hoàng cung, họ giết bà tại đó.

Giê-hô-gia-đa Lãnh Ðạo Cuộc Cải Cách

(2 Vua 11:17-20)

16 Giê-hô-gia-đa lập một giao ước giữa ông với toàn dân và với vua rằng họ sẽ làm dân của CHÚA. 17 Toàn dân kéo đến đền thờ của Thần Ba-anh và đập nó đổ xuống. Họ đập nát các bàn thờ và các hình tượng ra từng mảnh vụn. Họ giết Mát-tan tư tế của Thần Ba-anh ở trước các bàn thờ. 18 Kế đó Giê-hô-gia-đa đặt những người điều hành sự phục vụ Ðền Thờ CHÚA dưới quyền các tư tế, tức con cháu của Lê-vi, là dòng họ Ða-vít đã chỉ định để lo những việc trong Ðền Thờ CHÚA, hầu dâng các của lễ thiêu lên CHÚA với sự vui mừng và ca ngợi, như đã chép trong Luật Pháp của Môi-se, và như Ða-vít đã truyền. 19 Ông cũng đặt những người giữ cửa canh gác ở các lối vào Ðền Thờ CHÚA, hầu không ai ô uế được đi vào. 20 Sau đó ông mời tất cả các vị chỉ huy hàng trăm quân, các nhà quý tộc, các vị lãnh đạo trong dân, và toàn dân trong nước lại, rồi ông rước vua từ Ðền Thờ CHÚA đi xuống. Họ tiến qua Cổng Thượng của hoàng cung và đặt vua ngồi trên ngai. 21 Toàn dân vui mừng hớn hở, và kinh thành được ổn định vì A-tha-li-a đã bị giết bằng gươm.

Tài Liệu

  • Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
  • Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu