Giăng: Chương 9
Mục lục
Bản Dịch Việt Ngữ
Đức Chúa Jesus chữa lành người mù từ lúc mới sinh
1. Lúc đang đi, Ngài thấy một người mù từ lúc mới sinh. 2. Các môn đồ của Ngài đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy! Ai là người đã phạm tội - người nầy hay cha mẹ của anh ta - đến nỗi anh ta bị mù từ lúc mới sinh?”
3. Đức Chúa Jesus đáp: “Không phải vì người nầy hay cha mẹ của anh ta đã phạm tội, nhưng để công việc của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra trong anh ta. 4. Đang lúc còn ban ngày, chúng ta phải làm những công việc của Đấng đã sai Ta; khi đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5. Đang lúc Ta còn trong thế gian, Ta là ánh sáng của thế gian.”
6. Nói những điều này xong, Ngài nhổ xuống đất, hòa nước miếng thành bùn, rồi thoa bùn vào mắt của người mù. 7. Và rồi Ngài nói với anh ta: “Hãy đi và rửa tại ao Si-lô-ê” (chữ nầy có nghĩa là “được sai đi”). Vì vậy, anh ta đã đi, và rửa, rồi trở lại, thì thấy được.
8. Vì vậy, láng giềng và những người trước đây đã thấy anh là người ăn xin, đã nói rằng: “Đây không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó hay sao?” 9. Một số nói rằng: “Chính là người đó”; một số khác lại nói: “Không phải, nhưng một người nào giống hắn.” Nhưng người đó đã nói: “Chính tôi đây.”
10. Do đó, họ hỏi người: “Làm thế nào mắt của anh được mở ra như vậy?” 11. Người đó đã trả lời: “Có một người tên là Jesus đã hòa bùn, xức vào mắt của tôi, rồi ông ấy bảo tôi hãy đi đến ao Si-lô-ê và rửa. Do đó tôi đã đi, đã rửa, và thấy được.” 12. Rồi họ hỏi người: “Ông ấy ở đâu?” Người trả lời: “Tôi không biết.”
13. Họ đã dẫn người trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-si. 14. Ngày mà Đức Chúa Jesus đã hòa bùn và mở mắt cho người là ngày sa-bát.
15. Một lần nữa, những người Pha-ri-si hỏi người đó làm thế nào người đó được sáng mắt. Người đó đã trả lời với họ: “Ông ấy thoa bùn trên mắt của tôi, tôi đã rửa, và rồi thấy được.” 16. Vì vậy, một số người Pha-ri-si đã nói: “Người nầy không phải đến từ Đức Chúa Trời, bởi vì người nầy không giữ ngày sa-bát.” Tuy nhiên, những người khác thì nói: “Làm thế nào một người tội lỗi có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Và rồi có sự chia rẽ ở giữa họ. 17 Vì vậy, họ lại hỏi người mù: “Còn anh thì nói gì về người đã mở mắt của anh?” Người đó đáp: “Ông ấy là một nhà tiên tri.”
18. Tuy nhiên, người Do Thái không tin rằng người nầy trước đây đã bị mù mà nay lại thấy được, cho đến khi họ gọi cha mẹ của người đó đến 19. Và họ đã hỏi những người đó: “Đây là con trai của ông bà, là người mà ông bà nói đã bị mù từ lúc mới sinh phải không? Làm thế nào bây giờ anh ta lại thấy được?”
20. Do đó, cha mẹ của người đã trả lời: “Chúng tôi biết đây chính là con trai của chúng tôi, nó bị mù từ lúc mới sinh. 21. Nhưng bây giờ làm thế nào nó thấy được thì chúng tôi không biết. Chúng tôi cũng không biết ai đã mở mắt cho nó. Hãy hỏi nó, nó đã đủ tuổi rồi, nó sẽ tự trả lời cho chính mình.”
22. Cha mẹ của người nói như vậy vì sợ những người Do Thái, bởi vì những người Do Thái đã thỏa thuận rằng nếu ai xưng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi nhà hội. 23. Vì vậy, cha mẹ của người đã nói: “Nó đủ tuổi rồi, hãy hỏi nó.”
24. Do đó, những người Pha-ri-si một lần nữa gọi người trước đây đã bị mù, và nói với người: “Hãy tôn vinh Đức Chúa Trời! Chúng ta biết người nầy là kẻ có tội.”
25. Nhưng người đã trả lời: “Tôi không biết ông ấy có phải là kẻ có tội hay không. Tôi chỉ biết một điều đó là trước tôi đã bị mù mà bây giờ thấy được.”
26. Do đó, họ hỏi người: “Ông ta đã làm gì cho anh? Ông ta đã mở mắt anh như thế nào?”
27. Người đó đáp cùng họ: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không lắng nghe. Tại sao các ông lại muốn nghe một lần nữa? Có phải các ông cũng muốn trở nên môn đồ của ông ấy hay không?”
28. Họ mắng nhiếc người và nói: “Ngươi mới là môn đồ của người đó, nhưng chúng ta là những môn đồ của Môi-se. 29. Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, nhưng về người nầy thì chúng ta không biết từ đâu đến.”
30. Người đáp lại và nói với họ: “Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết từ đâu đến thì quả là một việc lạ. 31. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không nghe những kẻ có tội, nhưng nếu ai kính sợ Ngài, và làm theo ý muốn của Ngài, thì Ngài nghe người đó. 32. Từ xưa đến giờ, chưa hề nghe rằng có ai mở mắt cho người đã bị mù từ lúc mới sinh. 33. Nếu người nầy không đến từ Đức Chúa Trời thì không thể làm gì được cả.”
34. Họ đáp lại, và nói với người: “Cả con người của ngươi đã được sinh ra trong tội lỗi, mà ngươi còn muốn dạy chúng ta hay sao?” Rồi họ đuổi người ra ngoài.
35. Đức Chúa Jesus nghe họ đã đuổi người ra, nên đã tìm người, Ngài hỏi: “Ngươi có tin Con Người hay không?”
36. Người đã trả lời và nói rằng: “Thưa Chúa! Đấng đó là ai để tôi có thể tin Ngài?”
37. Đức Chúa Jesus nói với người: “Ngươi đã thấy Ngài, và Ngài là Đấng đang nói với ngươi.”
38. Người đó nói: “Thưa Chúa! Tôi tin.” Và rồi người đó thờ lạy Ngài.
39. Đức Chúa Jesus nói: “Ta đến thế gian nầy để phán xét, khiến cho người không thấy được có thể thấy được, còn người đang thấy lại hóa mù.”
40. Những người Pha-ri-si đang ở với Ngài nghe vậy thì nói với Ngài: “Chúng tôi cũng mù cả sao?”
41. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Nếu các ngươi mù, thì không có tội; nhưng vì các ngươi nói: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”
Bản Dịch Đại Chúng
Đức Chúa Jesus chữa lành người mù từ lúc mới sinh
Lúc đang đi, Ngài thấy một người mù từ lúc mới sinh. Các môn đồ của Ngài đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy! Ai là người đã phạm tội - người nầy hay cha mẹ của anh ta - đến nỗi anh ta bị mù từ lúc mới sinh?”
Đức Chúa Jesus đáp: “Không phải vì người nầy hay cha mẹ của anh ta đã phạm tội, nhưng để công việc của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra trong anh ta. Đang lúc còn ban ngày, chúng ta phải làm những công việc của Đấng đã sai Ta; khi đêm đến, không ai có thể làm việc được. Đang lúc Ta còn trong thế gian, Ta là ánh sáng của thế gian.”
Nói những điều này xong, Ngài nhổ xuống đất, hòa nước miếng thành bùn, rồi thoa bùn vào mắt của người mù. Và rồi Ngài nói với anh ta: “Hãy đi và rửa tại ao Si-lô-ê” (chữ nầy có nghĩa là “được sai đi”). Vì vậy, anh ta đã đi, và rửa, rồi trở lại, thì thấy được.
Vì vậy, láng giềng và những người trước đây đã thấy anh là người ăn xin, đã nói rằng: “Đây không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó hay sao?” Một số nói rằng: “Chính là người đó”; một số khác lại nói: “Không phải, nhưng một người nào giống hắn.” Nhưng người đó đã nói: “Chính tôi đây.”
Do đó, họ hỏi người: “Làm thế nào mắt của anh được mở ra như vậy?” Người đó đã trả lời: “Có một người tên là Jesus đã hòa bùn, xức vào mắt của tôi, rồi ông ấy bảo tôi hãy đi đến ao Si-lô-ê và rửa. Do đó tôi đã đi, đã rửa, và thấy được.” Rồi họ hỏi người: “Ông ấy ở đâu?” Người trả lời: “Tôi không biết.”
Họ đã dẫn người trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-si. Ngày mà Đức Chúa Jesus đã hòa bùn và mở mắt cho người là ngày sa-bát.
Một lần nữa, những người Pha-ri-si hỏi người đó làm thế nào người đó được sáng mắt. Người đó đã trả lời với họ: “Ông ấy thoa bùn trên mắt của tôi, tôi đã rửa, và rồi thấy được.”
Vì vậy, một số người Pha-ri-si đã nói: “Người nầy không phải đến từ Đức Chúa Trời, bởi vì người nầy không giữ ngày sa-bát.” Tuy nhiên, những người khác thì nói: “Làm thế nào một người tội lỗi có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Và rồi có sự chia rẽ ở giữa họ.
Vì vậy, họ lại hỏi người mù: “Còn anh thì nói gì về người đã mở mắt của anh?”
Người đó đáp: “Ông ấy là một nhà tiên tri.”
Tuy nhiên, người Do Thái không tin rằng người nầy trước đây đã bị mù mà nay lại thấy được, cho đến khi họ gọi cha mẹ của người đó đến. Và họ đã hỏi những người đó: “Đây là con trai của ông bà, là người mà ông bà nói đã bị mù từ lúc mới sinh phải không? Làm thế nào bây giờ anh ta lại thấy được?”
Do đó, cha mẹ của người đã trả lời: “Chúng tôi biết đây chính là con trai của chúng tôi, nó bị mù từ lúc mới sinh. Nhưng bây giờ làm thế nào nó thấy được thì chúng tôi không biết. Chúng tôi cũng không biết ai đã mở mắt cho nó. Hãy hỏi nó, nó đã đủ tuổi rồi, nó sẽ tự trả lời cho chính mình.”
Cha mẹ của người nói như vậy vì sợ những người Do Thái, bởi vì những người Do Thái đã thỏa thuận rằng nếu ai xưng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi nhà hội. Vì vậy, cha mẹ của người đã nói: “Nó đủ tuổi rồi, hãy hỏi nó.”
Do đó, những người Pha-ri-si một lần nữa gọi người trước đây đã bị mù, và nói với người: “Hãy tôn vinh Đức Chúa Trời! Chúng ta biết người nầy là kẻ có tội.”
Nhưng người đã trả lời: “Tôi không biết ông ấy có phải là kẻ có tội hay không. Tôi chỉ biết một điều đó là trước tôi đã bị mù mà bây giờ thấy được.”
Do đó, họ hỏi người: “Ông ta đã làm gì cho anh? Ông ta đã mở mắt anh như thế nào?”
Người đó đáp cùng họ: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không lắng nghe. Tại sao các ông lại muốn nghe một lần nữa? Có phải các ông cũng muốn trở nên môn đồ của ông ấy hay không?”
Họ mắng nhiếc người và nói: “Ngươi mới là môn đồ của người đó, nhưng chúng ta là những môn đồ của Môi-se. Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, nhưng về người nầy thì chúng ta không biết từ đâu đến.”
Người đáp lại và nói với họ: “Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết từ đâu đến thì quả là một việc lạ. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không nghe những kẻ có tội, nhưng nếu ai kính sợ Ngài, và làm theo ý muốn của Ngài, thì Ngài nghe người đó. Từ xưa đến giờ, chưa hề nghe rằng có ai mở mắt cho người đã bị mù từ lúc mới sinh. Nếu người nầy không đến từ Đức Chúa Trời thì không thể làm gì được cả.”
Họ đáp lại, và nói với người: “Cả con người của ngươi đã được sinh ra trong tội lỗi, mà ngươi còn muốn dạy chúng ta hay sao?” Rồi họ đuổi người ra ngoài.
Đức Chúa Jesus nghe họ đã đuổi người ra, nên đã tìm người, Ngài hỏi: “Ngươi có tin Con Người hay không?”
Người đã trả lời và nói rằng: “Thưa Chúa! Đấng đó là ai để tôi có thể tin Ngài?”
Đức Chúa Jesus nói với người: “Ngươi đã thấy Ngài, và Ngài là Đấng đang nói với ngươi.”
Người đó nói: “Thưa Chúa! Tôi tin.” Và rồi người đó thờ lạy Ngài.
Đức Chúa Jesus nói: “Ta đến thế gian nầy để phán xét, khiến cho người không thấy được có thể thấy được, còn người đang thấy lại hóa mù.”
Những người Pha-ri-si đang ở với Ngài nghe vậy thì nói với Ngài: “Chúng tôi cũng mù cả sao?”
Đức Chúa Jesus nói với họ: “Nếu các ngươi mù, thì không có tội; nhưng vì các ngươi nói: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”
Bản Dịch Ngữ Căn
1. Lúc đang đi, Ngài thấy một người mù từ lúc mới sinh. 2. Các môn đồ của Ngài đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy! Ai là người đã phạm tội, người nầy hay cha mẹ của anh ta, đến nỗi anh ta bị mù từ lúc mới sinh?”
3. Đức Chúa Jesus đáp: “Không phải vì người nầy, hay cha mẹ của anh ta đã phạm tội, nhưng để công việc của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra trong anh ta. 4. Đang lúc còn ban ngày, chúng ta phải làm những công việc của Đấng đã sai Ta; khi đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5. Đang lúc Ta còn trong thế gian, Ta là ánh sáng của thế gian.”
6. Nói những điều này xong, Ngài nhổ xuống đất, hòa nước miếng thành bùn, rồi thoa bùn vào mắt của người mù. 7. Và rồi Ngài nói với anh ta: “Hãy đi và rửa tại ao Si-lô-ê” (chữ nầy có nghĩa là “được sai đi”). Vì vậy, anh ta đã đi, và rửa, rồi trở lại, thì thấy được.
8. Vì vậy, láng giềng và những người trước đây đã thấy anh là người ăn xin, đã nói rằng: “Đây không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó hay sao?” 9. Một số nói rằng: “Chính là người đó”; một số khác lại nói: “Không phải, nhưng một người nào giống hắn.” Nhưng người đó đã nói: “Chính tôi đây.”
10. Do đó, họ hỏi người: “Làm thế nào mắt của anh được mở ra như vậy?” 11. Người đó đã trả lời: “Có một người tên là Jesus đã hòa bùn, xức vào mắt của tôi, rồi ông ấy bảo tôi hãy đi đến ao Si-lô-ê và rửa. Do đó tôi đã đi, đã rửa, và thấy được.” 12. Rồi họ hỏi người: “Ông ấy ở đâu?” Người trả lời: “Tôi không biết.”
13. Họ đã dẫn người trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-si. 14. Ngày mà Đức Chúa Jesus đã hòa bùn và mở mắt cho người là ngày sa-bát. 15. Một lần nữa, những người Pha-ri-si hỏi người đó làm thế nào người đó được sáng mắt. Người đó đã trả lời với họ: “Ông ấy thoa bùn trên mắt của tôi, tôi đã rửa, và rồi thấy được.” 16. Vì vậy, một số người Pha-ri-si đã nói: “Người nầy không phải đến từ Đức Chúa Trời, bởi vì người nầy không giữ ngày sa-bát.” Tuy nhiên, những người khác thì nói: “Làm thế nào một người tội lỗi có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Và rồi có sự chia rẽ ở giữa họ. 17 Vì vậy, họ lại hỏi người mù: “Còn anh thì nói gì về người đã mở mắt của anh?” Người đó đáp: “Ông ấy là một nhà tiên tri.”
18. Tuy nhiên, người Do Thái không tin rằng người nầy trước đây đã bị mù mà nay lại thấy được, cho đến khi họ gọi cha mẹ của người đó đến 19. Và họ đã hỏi những người đó: “Đây là con trai của ông bà, là người mà ông bà nói đã bị mù từ lúc mới sinh phải không? Làm thế nào bây giờ anh ta lại thấy được?”
20. Do đó, cha mẹ của người đã trả lời: “Chúng tôi biết đây chính là con trai của chúng tôi, nó bị mù từ lúc mới sinh. 21. Nhưng bây giờ làm thế nào nó thấy được thì chúng tôi không biết. Chúng tôi cũng không biết ai đã mở mắt cho nó. Hãy hỏi nó, nó đã đủ tuổi rồi, nó sẽ tự trả lời cho chính mình.” 22. Cha mẹ của người nói như vậy vì sợ những người Do Thái, bởi vì những người Do Thái đã thỏa thuận rằng nếu ai xưng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ thì người đó sẽ bị khai trừ khỏi nhà hội. 23. Vì vậy, cha mẹ của người đã nói: “Nó đủ tuổi rồi, hãy hỏi nó.”
24. Do đó, những người Pha-ri-si một lần nữa gọi người trước đây đã bị mù, và nói với người: “Hãy tôn vinh Đức Chúa Trời! Chúng ta biết người nầy là kẻ có tội.” 25. Nhưng người đã trả lời: “Tôi không biết ông ấy có phải là kẻ có tội hay không. Tôi chỉ biết một điều đó là trước tôi đã bị mù mà bây giờ thấy được.” 26. Do đó, họ hỏi người: “Ông ta đã làm gì cho anh? Ông ta đã mở mắt anh như thế nào?” 27. Người đó đáp cùng họ: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không lắng nghe. Tại sao các ông lại muốn nghe một lần nữa? Có phải các ông cũng muốn trở nên môn đồ của ông ấy hay không?” 28. Họ mắng nhiếc người và nói: “Ngươi mới là môn đồ của người đó, nhưng chúng ta là những môn đồ của Môi-se. 29. Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, nhưng về người nầy thì chúng ta không biết từ đâu đến.” 30. Người đáp lại và nói với họ: “Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết từ đâu đến thì quả là một việc lạ. 31. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không nghe những kẻ có tội, nhưng nếu ai kính sợ Ngài, và làm theo ý muốn của Ngài, thì Ngài nghe người đó. 32. Từ xưa đến giờ, chưa hề nghe rằng có ai mở mắt cho người đã bị mù từ lúc mới sinh. 33. Nếu người nầy không đến từ Đức Chúa Trời thì không thể làm gì được cả.” 34. Họ đáp lại, và nói với người: “Cả con người của ngươi đã được sinh ra trong tội lỗi, mà ngươi còn muốn dạy chúng ta hay sao?” Rồi họ đuổi người ra ngoài.
35. Đức Chúa Jesus nghe họ đã đuổi người ra, nên đã tìm người, Ngài hỏi: “Ngươi có tin Con Người hay không?” 36. Người đã trả lời và nói rằng: “Thưa Chúa! Đấng đó là ai để tôi có thể tin Ngài?” 37. Đức Chúa Jesus nói với người: “Ngươi đã thấy Ngài, và Ngài là Đấng đang nói với ngươi.” 38. Người đó nói: “Thưa Chúa! Tôi tin.” Và rồi người đó thờ lạy Ngài. 39. Đức Chúa Jesus nói: “Ta đến thế gian nầy để phán xét, khiến cho người không thấy được có thể thấy được, còn người đang thấy lại hóa mù.”
40. Những người Pha-ri-si đang ở với Ngài nghe vậy thì nói với Ngài: “Chúng tôi cũng mù cả sao?” 41. Đức Chúa Jesus nói với họ: “Nếu các ngươi mù, thì không có tội; nhưng vì các ngươi nói: ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”
Bản Dịch 1925
1. Đức Chúa Jêsus vừa đi qua, thấy một người mù từ thuở sanh ra. 2. Môn đồ hỏi Ngài rằng: Thưa thầy ai đã phạm tội, người hay là cha mẹ người, mà người sanh ra thì mù như vậy?
3. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người. 4. Trong khi còn ban ngày, ta phải làm trọn những việc của Đấng đã sai ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được. 5. Đang khi ta còn ở thế gian, ta là sự sáng của thế gian.
6. Nói xong Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, và đem xức trên mắt người mù. 7. Đoạn Ngài phán cùng người rằng: Hãy đi, rửa nơi ao Si-lô-ê (nghĩa là chịu sai đi). Vậy, người đi đến ao đó, rửa, và trở lại, thì được thấy rõ.
8. Xóm giềng người mù và những kẻ trước kia từng thấy người đi ăn mày đều nói rằng: nầy có phải là người vẫn ngồi ăn xin đó chăng? 9. Người thì nói: Ấy là hắn; kẻ lại nói: Không phải, song một người nào giống hắn. Người mù nói rằng: Chính tôi đây. 10. Chúng bèn hỏi người rằng: Tại sao mắt ngươi đã mở được?
11. Người trả lời rằng: Người tên gọi là Jêsus kia đã hòa bùn, xức mắt tôi, và nói tôi rằng: hãy đi đến rửa nơi ao Si-lô-ê. Vậy, tôi đi đến, rửa tại đó, rồi thấy được.
12. Chúng hỏi rằng: Người ấy ở đâu. Người trả lời rằng: Tôi không biết.
13. Chúng dẫn người trước đã mù đó đến cùng người Pha-ri-si. 14. Vả, ấy là ngày Sa-bát mà Đức Chúa Jêsus đã hòa bùn và mở mắt cho người đó. 15. Người Pha-ri-si lại hỏi người thế nào được sáng mắt lại. Người rằng: Người ấy rà bùn vào mắt tôi, tôi rửa rồi thấy được.
16. Có mấy kẻ trong những người Pha-ri-si bèn nói rằng: Người nầy không phải từ Đức Chúa Trời đến đâu vì không giữ ngày Sa-bát. Nhưng kẻ khác rằng: Một kẻ có tội làm phép lạ như vậy thể nào được? Rồi họ bèn chia phe ra.
17. Bấy giờ chúng hỏi người mù nữa rằng: Còn ngươi, về người đã làm sáng mắt ngươi đó thì ngươi nói làm sao? Người trả lời rằng: Ấy là một đấng tiên tri.
18. Song le, người Giu-đa không tin rằng người ấy trước đã mù mà được sáng lại, cho đến khi gọi cha mẹ người đến. 19. Họ gạn hỏi rằng: Đây có quả thật là con trai các ngươi mà các ngươi nói rằng nó mù từ thuở sanh ra chăng? Thế thì sao bây giờ nó sáng vậy?
20. Cha mẹ người trả lời rằng: Chúng tôi nhìn biết là con trai chúng tôi đó đã mù từ thuở sanh ra; 21. nhưng hiện nay tại làm sao thấy được, thì chúng tôi không rõ. Chúng tôi cũng không biết ai mở mắt nó nữa. Hãy hỏi nó, nó đã đủ tuổi, chính nó sẽ nói cho. 22. Cha mẹ người nói vậy, vì sợ dân Giu-đa; bởi dân Giu-đa đã định rằng hễ ai xưng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ thì phải bị đuổi ra khỏi nhà hội. 23. Ấy vì cớ đó nên cha mẹ người nói rằng: Nó đã đủ tuổi, hãy hỏi nói.
24. Vậy, người Pha-ri-si gọi người trước đã mù một lần nữa, mà nói rằng: Hãy ngợi khen Đức Chúa Trời, chúng ta biết người đó là kẻ có tội.
25. Người trả lời rằng: Tôi chẳng biết người có phải là kẻ có tội chăng, chỉ biết một điều, là tôi đã mù mà bây giờ lại sáng.
26. Họ lại hỏi rằng: Người đã làm điều gì cho ngươi? Mở mắt ngươi thể nào?
27. Người trả lời rằng: Tôi đã nói với các ông rồi, mà các ông chẳng nghe tôi. Cớ sao các ông muốn nghe lại lần nữa? Há cũng muốn làm môn đồ người chăng?
28. Họ bèn mắng nhiếc người, mà rằng: Ấy, chính ngươi là môn đồ người; còn chúng ta là môn đồ của Môi-se. 29. Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán cùng Môi-se, nhưng người này thì chúng ta chẳng biết bởi đâu đến.
30. Người trả lời rằng: Người đã mở mắt tôi, mà các ông chẳng biết người bởi đâu đến, ấy là sự lạ lắm! 31. Chúng ta vẫn biết Đức Chúa Trời chẳng nhậm lời kẻ có tội, mà nếu ai kính sợ Đức Chúa Trời, làm theo ý muốn Ngài, thì Ngài nhậm lời. 32. Người ta chẳng bao giờ nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ thuở sanh ra. 33. Nếu người này chẳng phải đến từ Đức Chúa Trời, thì không làm gì được hết.
34. Chúng trả lời rằng: Cả mình ngươi sanh ra trong tội lỗi, lại muốn dạy dỗ chúng ta sao! Đoạn họ đuổi người ra ngoài.
35. Đức Chúa Jêsus nghe họ đã đuổi người ra và Ngài có gặp người, bèn phán hỏi rằng: Ngươi có tin đến Con Đức Chúa Trời chăng?
36. Người thưa rằng: Thưa Chúa người là ai hầu cho tôi tin đến?
37. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đã thấy người và ấy là chính người đang nói cùng ngươi.
38. Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài.
39. Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã đến thế gian đặng làm sự phán xét nầy: Hễ ai chẳng thấy, thì thấy; còn ai thấy, lại hóa mù.
40. Mấy người Pha-ri-si bên cạnh Ngài nghe điều đó, thì nói với Ngài rằng: Còn chúng ta cũng là kẻ mù chăng?
41 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu các ngươi là kẻ mù, thì không có tội lỗi chi hết; nhưng vì các ngươi nói rằng: Chúng ta thấy, nên tội lỗi các ngươi vẫn còn lại.
Bản Dịch 2011
Chúa Chữa Lành Người Mù
1 Trong khi Ðức Chúa Jesus đi đường, Ngài thấy một người mù từ lúc sinh ra. 2 Các môn đồ Ngài hỏi Ngài, “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, ông này hay cha mẹ ông, mà vừa sinh ra ông đã bị mù?”
3 Ðức Chúa Jesus đáp, “Không phải vì ông hay cha mẹ ông đã phạm tội, nhưng để việc của Ðức Chúa Trời được thể hiện qua ông. 4 Ðang khi còn ban ngày Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta; đêm đến không ai làm việc nữa. 5 Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là ánh sáng của thế gian.”
6 Nói như thế xong Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, lấy bùn ấy bôi lên mắt người mù, 7 rồi bảo ông, “Hãy đến Ao Si-lô-am và rửa.” (Si-lô-am có nghĩa là ‘Ðược sai đi’). Vậy ông đi, rửa, và trở lại; mắt ông thấy được.
8 Láng giềng của ông và những người từng thấy ông ăn xin trước kia nói, “Ðây có phải là người lâu nay vẫn ngồi ăn xin không?” 9 Người thì nói, “Anh ấy chứ ai,” kẻ khác lại bảo, “Không đâu, chắc ai giống anh ấy.” Nhưng ông nói, “Chính tôi đây.”
10 Họ hỏi ông, “Làm sao mắt anh thấy được vậy?”
11 Ông trả lời, “Người tên là Jesus lấy bùn bôi vào mắt tôi, rồi bảo tôi đến Ao Si-lô-am và rửa. Tôi đến đó, rửa, và thấy được.”
12 Họ hỏi ông, “Người ấy đâu rồi?”
Ông đáp, “Tôi không biết.”
Người Pha-ri-si Ðiều Tra Sự Chữa Lành
13 Họ dẫn người trước đã mù đến gặp những người Pha-ri-si. 14 Số là ngày Ðức Chúa Jesus hòa bùn và mở mắt cho ông lại nhằm vào ngày Sa-bát. 15 Vậy những người Pha-ri-si lại hỏi ông làm thế nào ông có được thị giác. Ông trả lời họ, “Người ấy lấy bùn bôi vào mắt tôi, tôi đi rửa và thấy được.”
16 Vài người Pha-ri-si nói, “Người ấy không phải từ Ðức Chúa Trời đâu, vì người ấy không giữ ngày Sa-bát.” Nhưng những người khác nói, “Một người có tội làm sao làm một phép lạ như thế được?” Rồi họ chia rẽ nhau.
17 Họ lại hỏi người mù nữa, “Anh nghĩ người đã mở mắt anh là ai?”
Ông đáp, “Người ấy là một đấng tiên tri.”
18 Người Do-thái không tin rằng trước kia ông đã mù mà nay thấy được cho đến khi họ gọi cha mẹ ông đến. 19 Họ hỏi ông bà, “Có phải đây là con trai của ông bà mà ông bà nói nó đã mù từ lúc sinh ra không? Vậy tại sao bây giờ nó thấy được?”
20 Cha mẹ ông trả lời họ và nói, “Chúng tôi biết rằng đây là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ lúc sinh ra, 21 nhưng bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc ai đã mở mắt nó, chúng tôi không biết. Nó đã trưởng thành rồi, hãy hỏi nó, nó sẽ nói cho.”
22 Cha mẹ ông nói vậy vì họ sợ người Do-thái. Số là người Do-thái đã thỏa thuận trước với nhau rằng, hễ ai xưng nhận Ðức Chúa Jesus là Ðấng Christ, người ấy sẽ bị khai trừ khỏi hội đường. 23 Vì thế cha mẹ ông nói, “Nó đã trưởng thành rồi, hãy hỏi nó.”
24 Vậy họ gọi người trước đã mù vào lần thứ hai và nói với ông, “Hãy tôn vinh Ðức Chúa Trời. Chúng tôi biết người ấy là một kẻ tội lỗi.”
25 Nhưng ông đáp, “Người ấy có tội hay không tôi không biết; tôi biết chắc một điều là trước kia tôi mù mà bây giờ tôi thấy được.”
26 Họ lại hỏi ông, “Người ấy đã làm gì cho anh? Người ấy đã làm thế nào để mở mắt anh?”
27 Ông trả lời họ, “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông lại muốn nghe nữa? Không lẽ các ông muốn làm môn đồ của người ấy à?”
28 Họ mắng nhiếc ông và nói, “Anh mới là môn đồ của người ấy, còn chúng tôi là môn đồ của Môi-se. 29 Chúng tôi biết Ðức Chúa Trời đã phán với Môi-se; nhưng về người ấy, chúng tôi không biết ông ấy đến từ đâu.”
30 Ông trả lời và nói với họ, “Lạ thật! Một người đã mở mắt tôi, thế mà các ông không biết người ấy đến từ đâu! 31 Chúng ta biết rằng Ðức Chúa Trời chẳng nhậm lời kẻ tội lỗi, nhưng nếu ai kính sợ Ðức Chúa Trời và làm theo ý Ngài, Ngài sẽ nhậm lời. 32 Từ xưa đến nay chưa ai nghe nói có người nào mở mắt một người mù từ lúc sinh ra bao giờ. 33 Nếu người ấy không phải đến từ Ðức Chúa Trời, người ấy không thể làm gì được.”
34 Họ trả lời và nói với ông, “Toàn thân anh từ khi sinh ra đã ở trong tội lỗi, mà bây giờ anh muốn dạy đời chúng tôi sao?” Ðoạn họ đuổi ông ra.
Ðui Mù Thuộc Linh
35 Ðức Chúa Jesus nghe báo họ đã đuổi ông ra, Ngài tìm ông và nói, “Ngươi tin Con Người không?”
36 Ông trả lời và nói, “Lạy Chúa, người ấy là ai để con tin?”
37 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Ngươi đã thấy người ấy; đó là người đang nói với ngươi.”
38 Ông nói, “Lạy Chúa, con tin.” Rồi ông quỳ xuống thờ lạy Ngài.
39 Ðức Chúa Jesus phán, “Vì sự phán xét Ta đã đến thế gian này, để cho những ai không thấy có thể thấy, và cho những ai thấy có thể hóa ra mù.”
40 Những người Pha-ri-si đứng gần đó nghe vậy bèn hỏi Ngài, “Chẳng lẽ chúng tôi cũng mù cả sao?”
41 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Nếu các ngươi mù, các ngươi chẳng có tội, nhưng vì các ngươi nói, ‘Chúng tôi thấy,’ nên tội các ngươi vẫn còn.”
Tài Liệu
- Kinh Thánh - Bản Dịch 1925 - Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại
- Kinh Thánh - Bản Dịch 2011 - Mục sư Đặng Ngọc Báu
- Kinh Thánh - Bản Dịch Ngữ Căn - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Việt Ngữ - Thư Viện Tin Lành
- Kinh Thánh - Bản Dịch Đại Chúng - Thư Viện Tin Lành